Sắc thu hồ Ba Bể

Phạm Ngọc 15:40, 29/09/2025

Tôi chợt nhận ra mình đi lạc vào trong tranh thủy mặc hồ Ba Bể. Hùng vĩ và hoang sơ, đá dựng thành núi, cây phủ nên rừng, mặt nước phẳng lặng như gương, bốn bề non xanh nước biếc. Tôi thảng thốt: Mẹ thiên nhiên đã họa vào lòng Việt Bắc một bức tranh không thể đẹp hơn nữa.

Phía đông Hồ Ba Bể. Ảnh: Vũ Kim Khoa.
Phía đông Hồ Ba Bể. Ảnh: Vũ Kim Khoa.

Tôi cũng như rất nhiều người Thái Nguyên tự hào trên địa bàn của tỉnh có 2 hồ chứa nước lớn. Một là hồ Núi Cốc do hàng nghìn lao động đào đắp trong thời gian gần 10 năm (1973-1982). Một là hồ Ba Bể được thiên nhiên kiến tạo qua hàng triệu triệu năm với những trồi, sụt lún, nứt địa chất. Cả hai hồ đều được “tao nhân mặc khách” trong nước và thế giới biết đến vì vẻ đẹp dịu dàng giống như nàng sơn nữ đến tuổi hẹn hò.

Tôi đã nghĩ mông lung trên suốt dọc đường từ trung tâm hành chính tỉnh Thái Nguyên lên với hồ Ba Bể. Một hồ nước giữa những trùng trùng điệp điệp của bao dải đá vôi. Nằm ở độ cao gần 150m so với mực nước biển nên được ví là hồ treo có sức chứa khổng lồ với 5 triệu mét khối nước trên lưng chừng núi. Ba hồ Pé Lầm, Pé Lù và Pé Lèng giống như 3 con rồng khổng lồ cùng châu đầu lại để nhả ra viên ngọc lam bích trao tặng cho núi rừng Việt Bắc.

Tôi đã lạc vào xứ sở thần tiên ấy từ bến đợi Buốc Lốm. Bến đợi Buốc Lốm nằm bên bờ dòng sông Năng. Lòng sông không lớn lắm, một trai tráng khỏe mạnh có thể cầm viên cuội quăng được tới bờ bên kia. Tôi thoáng ước được sang bờ bên để chạy thêm mươi phút đến mé núi đá vôi ấy để thưởng thức cái hơi khí man mát của rừng. Nhưng từ cuối thuyền có tiếng nói khàn khàn cảnh tỉnh: Thỉnh thoảng bên núi lại xuất hiện đàn khỉ chừng hơn chục con ra đu cây trêu người.

Hành trình được bắt đầu bằng câu chuyện vu vơ với bác lái thuyền gắn máy. 60 tuổi đời, hơn 40 năm gắn bó với khúc sông này nên bác lái thuyền có tên Dương Mạnh Cam, người thôn Nà Làng, xã Ba Bể thuộc nằm lòng từng đoạn khúc. Bác Cam rủ rỉ: Sông hiền hòa vì chở nặng phù sa. Mấy mươi năm trước, sông đoạn này sâu và rộng hơn. Rồi phù sa bồi đắp, bãi bờ nở ra thì lòng sông cũng hẹp lại.

Lựa nước dòng sông Năng, thuyền trôi đi trong yên bình. Điều ngạc nhiên là khúc sông nơi thượng nguồn này vào độ thu mà chảy hiền hòa như cô gái nhu mì mới về nhà chồng. Không ồn ào sôi sục, không chút dữ dằn vốn có như bao khúc sông gập ghềnh đầy đá dữ của miền sơn dã. Tuy nhiên tôi nhận ra cái sắc hồng nhờ nhợ gợn lên từ đáy sông là da thịt của núi rừng Việt Bắc bị mưa nắng mài mòn. Vì thế tôi nghe thấy réo rắt âm hưởng vừa lạ, vừa quen như khúc hoan ca được cất lên đầy diệu vợi hòa cùng tiếng nhạc rừng, đàn đá dọc suốt bờ nước xì xụp vỗ về.

Ảnh: Đoàn Việt Hưng
Ảnh: Đoàn Việt Hưng

Cái âm thanh khác lạ từ vách đá được tạo bởi gió và từng vạt rừng xô nghiêng, lõa xõa như tóc mây ngả xuống mặt sông. Thuyền trôi mươi phút mới bắt đầu thực sự vào luồng lạch đi trong khe núi. Vãn cảnh vật bên bờ chợt thấy mình như đi lạc vào miền cổ tích. Khi bờ bên này núi đá dựng vách đứng, con nai, con hoẵng sơ suất bước tới thì cầm chắc hẫng chân rơi xuống lòng sông. Thì bờ bên kia chợt mở rộng một bãi bồi, thoai thoải cho ngô, lúa đơm bông, lác đác có đàn trâu nhẩn nha gặm cỏ.

Ngồi trong lòng thuyền, tôi đã cố nhìn lên một chóp núi xem ở đó có con chim rừng kiêu hãnh cất tiếng hót. Núi cao đến mức gần như ngửa người ra sau làm mũ rơi ra lòng thuyền. Vừa khi ấy nhận ra suốt dọc bên bờ là những cây sung cổ thụ. Sung nhiều vô kể, cây nào cũng to bằng hai, ba người nắm lấy tay nhau, quây lại thành một vòng tròn có khi chưa kín gốc. Nhìn cái thân cây xù xì, mốc thếch nhưng có lẽ từ hàng trăm năm nay những cây sung ấy lặng lẽ chắt chiu từ đất và hứng nắng trời để tạo ra từng chùm quả ngọt lành nuôi đàn chim trong rừng và cá dưới sông.

Nhiều “đại gia” bất động sản khi đi thuyền qua đoạn sông này đã chép miệng thèm thuồng với giấc mơ được sở hữu một cây sung như thế trong vườn nhà. Vì núi cao, địa thế vô cùng hiểm trở, song cũng có “đại gia” tính kế bỏ tiền thuê người “đào tận gốc, trốc tận rễ” rồi chặt tre bên bờ kết thành bè mang cây về xuôi. Nhưng không thể, vì đó là tài sản của Vườn Quốc gia Ba Bể. Mặc kệ, những cây sung vẫn đứng đó khoe dáng tạo cho cảnh quan bên bờ dòng sông Năng càng trở nên trữ tình. Không cây nào giống nhau. Cây ngả vào bờ đá như làm nũng, cây ngả hẳn ra mặt sông, thả bộ rễ xuống nước, lâu ngày cái rễ ấy được nuôi lớn to như một thân cây. Nhưng dù ngả về đâu thì trên cành cho chim làm tổ, dưới nước có cá đợi mồi.

Cây nào cũng đầy quả. Đang độ đầu thu, có cây mang màu đỏ, cây mang màu vàng, có cây mang màu xanh lục của quả non. Sung nhiều quả đến mức con chim sẻ, chim chào mào rỉa mỏ làm lơ. Con sóc, con khỉ chểnh mảng việc nhằn quả. Quả sung chín ngọt lành rơi xuống, đàn cá đớp lấy, đuổi theo nhau như lũ trẻ chơi cướp cờ. Thuyền cứ lựa nước trôi đi, có những đoạn lòng sông như hẹp lại bởi bên bờ có 2 dãy núi dựng vách cao tít, ép vào nhau như cánh cổng lớn. Chợt lòng sông mở ra, từ xa trông lại thấy một tảng núi dựng vách chắn ngang sông khiến những ai lần đầu đến đây mang cảm giác lo sợ thuyền húc vào vách núi.

Nhưng mẹ thiên nhiên khéo sắp bày, mở cho dòng sông Năng một lối thoát bằng cách làm rỗng lòng núi cho dòng nước đi tiếp. Đó chính là động Puông. Ai nấy hồ hởi ngắm nhìn những tảng nhũ thạch từ đỉnh hang rủ xuống, bên vách hang chòi ra với vô số kỳ hình thỏa trí tưởng tượng. Nhất là lúc thuyền trôi đến đoạn giữa động, mặt trời như vụt lặn, lòng động còn vương lại thứ ánh sáng nhòa nhạt lân tinh. Cảnh đẹp mơ hồ khiến ai nấy liên tưởng đến câu chuyện của ngày trời đất giao hòa, người tiên giới đã đến đây ngồi đánh cờ, ngắm nước sông Năng.

Chợt dưới đáy thuyền nước réo ùng ục tưởng như có thủy quái, thuồng luồng. Mồ hôi túa ra mà cảm giác ớn lạnh dọc sống lưng. Tôi bám vội vào mạn thuyền nhớ về một tích truyện bi thảm. Tại động Puông, gần 350 năm trước, một số vị tướng thời nhà Mạc bại trận chạy đến đây, vì không muốn bị bắt nên đã tuẫn tiết ngay trong động. Một loáng sau đã thấy trước động thứ ánh sáng lờ nhờ, rồi rõ dần. Lúc thấy mặt trời dứng giữa đỉnh đầu là lúc thuyền vừa trôi ra khỏi lòng động. Thở phào nhẹ nhõm, con thuyền tiếp tục mang tôi theo dòng nước men giữa các bờ núi đá cao chất ngất, qua lác đác bản làng lẩn khuất dưới chân núi, qua hết bến Bản Tàu, lại Bản Cám, đi tiếp qua những rừng đá đầy sung khoe quả lại chợt thấy một đồng bằng thu nhỏ.

Ở ngã ba sông, đó là lúc dòng sông Năng tiếp nhận thêm sức sống từ hồ Ba Bể đổ ra. Sông mang theo cái màu da thịt của núi rừng Việt Bắc đi tiếp sang địa phận tỉnh Tuyên Quang và góp thêm sức nước với dòng sông Gâm. Cũng vì nước trong hồ Ba Bể đi ra nên những phù sa của các triền rừng Việt Bắc đổ xuống không có cơ hội ngược vào hồ. Nước thong dong đi, đôi dòng phân định rõ trong, đục. Kể từ đây thuyền bỏ lại phía sau cái màu nước phù sa, để được bơi trên dòng nước trong xanh màu ngọc bích vào hồ Ba Bể.

Lòng sông cứ mở rộng ra khiến tôi có cảm giác như mình vừa thoát khỏi mê trận núi sông giữa rừng Việt Bắc. Mê trận ấy được bài trí bằng khung cảnh thiên nhiên phóng khoáng, trữ tình cùng tiếng ngàn reo hào sảng. Để khi ra đến hồ mà lòng vẫn nhớ sông.

Cả triệu triệu năm trước thiên tạo đã khéo bày. Hồ là sông, mà sông cũng là hồ, chính xác phải gọi như vậy khi nói về hồ Ba Bể. Bởi các nhánh hồ Pé Lầm, Pé Lù và Pé Lèng hợp lại với nhau thành một hồ nước lớn. Với diện tích mặt hồ khoảng 500ha, độ sâu trung bình từ 20 đến 25m, nơi sâu nhất 35m. Tại Hội nghị Hồ nước ngọt thế giới được tổ chức tại Mỹ Năm 1995, đại biểu đến từ các châu lục đã công nhân hồ Ba Bể của Việt Nam là một trong 20 hồ nước ngọt đặc biệt của thế giới cần được bảo vệ.

Có lẽ ở Việt Nam, cũng nhiều nước trên thế giới còn rất ít nơi có được môi trường sinh thái trong lành như ở hồ Ba Bể. Với những núi đá vôi sừng sững soi bóng xuống gương hồ, rồi chợt từ mờ ảo sương mây thấp thoáng từng con thuyền độc mộc cùng bóng áo chàm nhẹ lướt từ mây nước hiện ra. Nhất là vào lúc sớm mai, hơi nước từ mặt hồ buông lơi hờ hững, chỗ như khói, chỗ như mây, lại thấy có tiếng hát đối đáp của trai gái vọng đến càng làm mặt hồ thêm huyền ảo. Rồi bóng thuyền độc mộc trôi ra chậm rãi không thấy một âm thanh của mái chèo khua trên màu ngọc bích. Những bóng chàm hiện lên rõ dần ngay trước mắt mà tưởng nhầm những thuyền ấy từ một mê cung dưới đáy hồ nhoi lên. Cảnh vật thiên nhiên chợt xao động, thoáng chốc trở lại tĩnh lặng khiến bao người đến đây có chung cảm nhận như mình đang bước vào bên trong đời sống tâm hồn của bức tranh thủy mặc.

Dù đã có hàng triệu lượt du khách trong nước, quốc tế đến đây, nhưng cảnh quan hồ Ba Bể chưa bao giờ bị xáo trộn. Vẫn núi non lặng lẽ soi bóng xuống gương hồ và mải miết những chiếc thuyền độc mộc mang bóng chàm săn đuổi đàn cá chép kình, cá trắm… Đã có bao người “ăn đời, ở kiếp” nhờ hồ Ba Bể. Lớp sau theo lớp trước, ngày chăm lo việc ruộng nương, canh của; khuya về bơi chải trên hồ tìm cá tôm. Họ sống dựa vào hồ, nhờ sản vật có trong hồ mà đời sống bớt phần chật vật. Và hồ dựa ý thức của họ mà không bị bẩn nhơ, môi trường ô nhiễm.

Còn tôi cũng tự hào vì được đi lạc vào bức tranh thủy mặc giữa núi rừng Việt Bắc. Được có một khoảng lặng riêng mình với nước hồ Ba Bể, với núi non hùng vĩ nổi lênh trên màu xanh ngọc bích. Để mỗi sớm khi bình minh gọi mặt trời, từng màn sương mỏng tựa tấm voan trắng khổng lồ nhè nhẹ choàng lên màu xanh ngọc bích, thanh bình trôi nhẹ vào miền viễn du. Rồi lúc hoàng hôn buông vội, ánh chiều đổ xuống mặt hồ đỏ ối, hắt vào vách núi sắc màu óng ánh hư hư thực thực.

Cả một vùng núi non ôm ấp lấy hồ Ba Bể, và hồ Ba Bể lại bao dung vỗ về vào chân núi. Núi đứng sừng sững mang câu chuyện của chúa sơn lâm. Hồ rộng mênh mang, sâu thẳm với câu chuyện tình thủy chung của người đàn bà thờ chồng nuôi con. Cao thượng nhường nào khi người đàn bà ấy không giàu có về vật chất, nhưng giàu lòng bao dung đã sẻ cơm, nhường áo cho một cụ già ăn mày khổ hạnh. Rồi cũng người đàn bà ấy đã cứu được dân làng trong cơn đại hồng thủy. Bao thi nhân đã đến đây làm thơ, họa lại cảnh hòn đảo mang tên người đàn bà nhân hậu.

Trong sương thu mờ ảo đã tạo nên vẻ đẹp huyền bí cho hồ Ba Bể. Ảnh: Đào Tuấn
Trong sương thu mờ ảo đã tạo nên vẻ đẹp huyền bí cho hồ Ba Bể. Ảnh: Đào Tuấn

Trong sương thu mờ ảo, tôi mơ màng tưởng tượng ra người đàn bà ấy bước ra từ bức tranh thủy mặc hồ Ba Bể. Bà ngồi trên chiếc thuyền độc mộc, kể cho mọi người nghe về những trồi sụt dư chấn địa chất. Những vết nứt núi non tạo thành sông, những vùng trũng trở thành hồ nước lớn.

Có ai biết dưới chân mình, ở các địa tầng trong lòng đất tiềm tàng những vàng, bạc, đồng, sắt… Cũng dưới chân mình có khi đang ồn ào tiếng gầm thét của một dòng sông ngầm, một hồ chứa. Cũng có thể là một nền văn minh nhân loại có từ triệu triệu năm trước bị vùi chôn.

Là tôi giả định như thế khi ngồi trên con thuyền trôi trên nền ngọc bích, thấy trên mặt hồ những đảo lớn, đảo nhỏ. Có đảo thoải dài mang trên nó sự sống của bản làng. Có đảo đá dựng vách chỉ có các loài muông thú trú ngụ. Và dưới chân đảo có bao sóng nước nhẹ tênh vỗ về như lời mẹ hời ru.

Vâng! Đền An Mã nơi yên nghỉ của các vị tướng thời nhà Mạc. Rồi quanh hồ là những bản làng của đồng bào các dân tộc Tày, Mông, Dao dựa lưng vào núi, mặt hướng về hồ. Tất cả hòa quyện, phác thảo thành vẻ đẹp đầy sức sống của bức tranh thủy mặc hồ Ba Bể.