“Trong tâm hồn mỗi người, đều có tình yêu thiết tha đối với quê hương, với nhà máy, xí nghiệp, trường học, đồng ruộng… nơi họ gắn bó, nhưng họ không biết cách bày tỏ, càng không biết dùng các loại hình nghệ thuật để diễn đạt. Văn nghệ sĩ chính là người giúp họ diễn đạt tâm tư, tình cảm. Vì vậy, đến mỗi vùng đất mới, phải biết rung cảm trước vẻ đẹp của con người và thiên nhiên, tâm hồn tràn ngập cảm xúc để hóa thân vào đất và người nơi ấy…”, đây là bí quyết để cố nhạc sĩ Đặng An Nguyên có nhiều tác phẩm được công chúng yêu thích.
Trái tim luôn chan chứa yêu thương
Cách đây tròn 20 năm, tôi may mắn được tham dự Trại sáng tác Văn học nghệ thuật (VHNT) do Hội VHNT tỉnh Thái Nguyên và Hội Liên hiệp VHNT Hà Nội phối hợp tổ chức vào tháng 11 năm 2005. Đây thực sự là cơ hội vô cùng quý giá đối với cá nhân tôi và các văn nghệ sĩ Thái Nguyên, bởi chúng tôi được gặp gỡ, giao lưu với nhiều hội viên Hội Liên hiệp VHNT Hà Nội là những người rất nổi tiếng như nhà văn Tô Hoài, nhà thơ Bằng Việt, nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn… Đặc biệt, tôi đã học hỏi được nhiều kinh nghiệm về sáng tạo nghệ thuật nhờ những cuộc trò chuyện với nhạc sĩ Đặng An Nguyên.
![]() |
| Nhạc sĩ Đặng An Nguyên và nhà thơ Lưu Thị Bạch Liễu báo cáo kết quả tại Trại sáng tác VHNT năm 2005. |
Trại sáng tác được tổ chức tại Hà Nội, ngay ngày đầu tiên nhạc sĩ Đặng An Nguyên đã đến thăm hỏi các văn nghệ sĩ Thái Nguyên. Ông trẻ hơn tuổi 67 rất nhiều, lịch thiệp và chu đáo. Ông cũng kiên nhẫn dành nhiều thời gian để chia sẻ với tôi về cuộc đời cũng như quá trình sáng tác âm nhạc. Ông nói:
- Tôi đã sáng tác cả trăm ca khúc, những ca khúc ấy vẫn đang được cất lên hằng ngày khắp trong Nam ngoài Bắc, khắp miền núi, hải đảo. Tự nhận xét một cách khiêm tốn, tôi là một trong số ít các nhạc sĩ được đặt hàng thường xuyên và khá thành công.
Ông tặng tôi đĩa VCD tuyển chọn ca khúc Đặng An Nguyên kèm album tác giả do DIHAVINA và Hội Nhạc sĩ Việt Nam phát hành năm 1995. Cùng với đó, trên Internet cũng có rất nhiều bài hát do ông sáng tác. Những bài hát nổi tiếng nhất của ông có thể kể đến: “Trở lại mái trường xưa” qua giọng hát của Nghệ sĩ Nhân dân Thanh Hoa, đây là bài hát được bình chọn trong số những bài hát hay nhất về mái trường, được lấy làm tên của tuyển tập 100 ca khúc do Bộ Giáo dục và Đào tạo ấn hành. “Mùa thu xanh”, “Nghe em hát chiều Matxcơva”, “Chiều Hồ Gươm” và “Hà Nội, thành phố vì hòa bình”,... cũng là những ca khúc quen thuộc, được phát nhiều trên các chương trình ca nhạc của Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam.
Tôi nghe “Sơn La mùa xuân về”, “Người con gái sông Thương”, “Chiều Hạ Long”, “Chiều Yên Mô”, “Huế- Nàng thơ”, “Thành phố trước biển đông”…
Dù là viết về miền đất nào, tác phẩm cũng ấm nồng hơi thở cuộc sống và ngân vang giai điệu tự hào. Ông tâm sự rằng văn nghệ sĩ là những người có khả năng sáng tạo nghệ thuật mà số đông quần chúng không có.
Mỗi khi được đặt viết một bài hát, tất cả tâm hồn ông đều hướng về vùng đất ấy, phương trời ấy, đau đáu vì nó, như vậy mới có thể viết nên tác phẩm lay động lòng người. Cũng nhờ vậy, người nghệ sĩ không chỉ hoàn thành nhiệm vụ sáng tác của mình, không chỉ “nói hộ” địa phương, mà còn lan tỏa được cái hay, cái đẹp của nơi mình đến, giúp cho thêm nhiều người biết đến nơi ấy, mến yêu nơi ấy…
Mỗi khi đặt chân đến một miền đất lạ, tôi luôn nhớ lời tâm sự của nhạc sĩ, cũng là lời chỉ bảo giúp tôi trở nên chuyên nghiệp trong lao động nghệ thuật.
“Chiều quê hương”- giai điệu của một tình yêu khắc khoải
Về bài hát “Chiều quê hương”, ông kể:
- Tôi đã viết và công bố hàng chục ca khúc về Thái Nguyên, được khá nhiều người yêu thích như: Ánh trăng Hồ Núi Cốc, Quê hương yêu dấu, Phú Lương ngày mới, Những cô gái Phổ Yên… Riêng “Chiều quê hương” là ca khúc tôi viết nhanh nhất và không có ý định phổ biến, bởi lẽ tôi chỉ định giữ cho riêng tôi, là tiếng lòng của riêng mình.
Ấy là vào một ngày của năm 1990, trên đường đi công tác, ông vô tình đọc “Về nơi đầu suối” của tác giả Nguyễn Anh Thuấn trên trang thơ của Báo Văn nghệ, bài thơ có nhiều câu chữ như nói hộ nỗi niềm sâu kín giấu tận đáy tâm can ông. Cảm xúc trào dâng trong từng nốt nhạc, ngân lên giai điệu thổn thức xen chút cay đắng, giận hờn về một phương trời, một miền đất, một miền quê “nửa đồng nửa núi” đã ám ảnh suốt cuộc đời ông, gieo vào ông một tình yêu khắc khoải.
Giai điệu cũng cứ tự bật ra “Anh đi giữa chiều đầy sương khói, một thoáng quê hương bóng chiều khuất núi… Ôi, suốt cả cuộc đời mà như đi trong mơ, ở một miền quê nửa đồng nửa núi để anh khát cháy lòng bên đầu suối… Thái Nguyên ơi, sao mà nhớ mà thương…”.
- Tôi yêu quê bằng một tình yêu vừa da diết vừa đớn đau, ông tâm sự.
Mỹ Yên (cũ) quê ông là vùng đất trù phú dưới chân núi Tam Đảo. Từ đời các cụ đã có đầu óc làm ăn hơn người nên có của ăn của để, trong tay hàng chục mẫu ruộng. Để tránh phu phen, cha của nhạc sĩ là cụ Đặng Văn Ẩm đã bỏ tiền mua chức Chánh tổng. Là địa chủ nhưng cụ là người chịu thương chịu khó và nhân ái hết sức, hàng chục tá điền đều là anh em họ hàng không có đất đai nên phải đi làm thuê. Từ những năm 1930, được giác ngộ, cụ Ẩm trở thành cơ sở cách mạng là nơi đi lại của nhiều cán bộ.
Năm 1947, cụ Ẩm đã dành một nửa cơ nghiệp gồm 8 gian nhà, 5 mẫu ruộng, toàn bộ đàn bò 4 con, 1 con ngựa dựng nên An dưỡng đường thương binh số 2 tại xã Mỹ Yên. Thương binh từ các chiến dịch được đưa về đây điều trị, chăm sóc. Rất nhiều đoàn văn công quân đội cũng đã về đây biểu diễn phục vụ thương binh và bà con nhân dân, âm nhạc ngấm vào máu ông từ những buổi xem văn nghệ ấy.
Năm 1953, cụ Ẩm bị quy thành phần địa chủ, gia tài bị tịch thu hết, để tránh những hệ lụy, cụ đã khuyên ông rời xa gia đình đi thoát li. Dù chịu nhiều thiệt thòi, trước sau cụ vẫn một lòng trung với nước và tuyệt đối tin tưởng vào cách mạng, cụ động viên hai người con trai lớn đi bộ đội và cả hai đều đã anh dũng hy sinh.
Nghe lời cha, cậu bé mười lăm tuổi ngậm ngùi chia tay người thân, chuyến đi của ông kéo dài gần ba mươi năm mới trở về quê hương, không phải chỉ bởi “đường dài cách trở”… Đầu tiên, ông vào Đoàn văn công Quân khu 1, học và diễn đủ mọi thể loại: hát, múa, kịch.
Nhưng cây đàn piano và ngôn ngữ âm nhạc đã làm ông mê đắm, tranh thủ mọi điều kiện, ông mày mò học đàn từ các chú, các anh nhạc công, nhiều năm sau đó, ông thi đỗ vào Trung cấp Âm nhạc tại Hà Nội. Học xong, ông được nhận vào làm việc tại dàn nhạc giao hưởng Việt Nam, chừng đâu vài năm, ông đã lại thử rẽ cuộc đời mình theo ngả khác, thi vào Khoa Văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Sau 2 năm học, ông nhận ra rằng âm nhạc mới chính là lẽ sống của đời mình, ông bỏ học, xin vào Đoàn ca múa Hà Tĩnh. Những sáng tác đầu tay bắt đầu từ đây và nhanh chóng gặt hái thành công. Ông viết hợp xướng “Thời đại Hồ Chí Minh”, đến nay vẫn được nhiều chương trình ca nhạc dàn dựng. Từ năm 1973, ông trở thành biên tập viên ca nhạc của Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, rồi giữ chức Trưởng ban Văn nghệ Đài Truyền hình Việt Nam cho đến năm 1999 thì nghỉ hưu.
Về bài thơ “Về nơi đầu suối”, tác giả là nhà thơ tài hoa đất Kinh Bắc Nguyễn Anh Thuấn, sinh năm 1948, kém nhạc sĩ đúng 10 tuổi. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, từng giành nhiều giải thưởng thơ của Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, giải thưởng VHNT xuất sắc tỉnh Bắc Ninh. Ông đã xuất bản các tập thơ: Bàn tay năm tháng; Bất ngờ hoa đỏ; Lạnh quá láng giềng ơi; Cây hai bờ gió; Gió vẫn thổi ngang chiều; Buông gió vào chiều; Không chỉ là giấc mơ...
Ông tâm sự:
- Tôi sinh ra ở làng Kim Đôi (Bắc Ninh), một làng nổi tiếng trong lịch sử khoa bảng của dân tộc. Vừa tròn 6 tháng tuổi tôi đã theo gia đình tản cư lên ATK Thái Nguyên và sống ở đấy cho đến năm 1955 mới trở lại quê nhà. Cuối năm 1975, có lẽ do hữu duyên, tôi lại được phân công về Khu công nghiệp Gò Đầm (Phổ Yên, Bắc Thái cũ) làm cán bộ kỹ thuật. Hơn 5 năm sống với núi rừng Phổ Yên, Đồng Hỷ, Tân Cương... Thái Nguyên đã lưu dấu trong tâm hồn tôi biết bao kỷ niệm vui buồn. Háo hức say mê và vụng dại ngơ ngẩn suốt nhiều năm trời, tôi đã gửi nỗi lòng mình vào thơ. Hết viết rồi lại xóa, bài thơ “Về nơi đầu suối” được hoàn thành vào năm 1989 và ngay lập tức được Báo Văn Nghệ đăng trên trang thơ. “Về nơi đầu suối” mang hàm ý về mảnh đất cội nguồn cách mạng, cũng là trở về với những rung động đầu đời… Cố nhạc sĩ Đặng An Nguyên đã phổ nhạc rất hay và đặt tên bài hát là “Chiều quê hương”. Khi chọn in trong tập thơ “Lạnh quá láng giềng ơi”, tôi lại đổi tên bài thơ thành “Thái Nguyên ơi!”.
Sau Trại sáng tác, tôi đã được nhạc sĩ đưa về thăm Mỹ Yên quê nhà ông, chỉ cho tôi khu vực dựng An dưỡng đường thương binh số 2 năm xưa giờ gần như không còn dấu tích. Cảm nhận nỗi niềm “suốt cả đời người mà như đi trong mơ” của người nghệ sĩ đa cảm, tôi càng cảm phục nghị lực phi thường khi ông gạt bỏ mọi nỗi uất ức, đắng cay để chỉ trào dâng một tình yêu thuần khiết đối với quê hương, “Về quê hương anh về nơi đầu suối/Giữa tươi xanh muốn hát lại đời mình”.
Ca khúc “Chiều quê hương” là sự kết hợp hoàn hảo cả sự tài hoa và thăng hoa của hai tác giả nhạc và thơ. Những câu thơ hay nhất chứ không phải tất cả bài thơ được chọn để làm ca từ. Tâm thế của thi sĩ Nguyễn Anh Thuấn trong “Về nơi đầu suối” là của một người khách phương xa đem lòng yêu mến Thái Nguyên, đến Thái Nguyên với những giận hờn rất “đôi lứa”: “Tôi lạc bước giữa chiều đầy sương khói/Ôi quá nửa đời người chưa gặp suối/Chưa gặp em ở chốn thật của mình!/Phố phường xa ai chả biết đẹp xinh/Một tình yêu không dễ gì cưỡng nổi”.
Còn tâm thế của nhạc sĩ Đặng An Nguyên trong bài hát là một người con của mảnh đất này khi trở về quê hương sau bao tháng năm dài biền biệt xa cách. Đặc biệt, ông chỉ thêm vào một câu “Hương chè xanh xanh đến mượt mà”, tác phẩm lập tức trở thành bài ca của người Thái Nguyên, của đất chè Thái Nguyên. Có thể nói, lời bài hát là một phiên bản khác hẳn bài thơ gốc, tình yêu nam nữ được nâng tầm thành tình yêu quê hương thiết tha. “Chiều quê hương” đã nhanh chóng trở thành bài “tủ” giúp các ca sĩ Thái Nguyên gặt hái giải thưởng tại các hội diễn Trung ương và được công chúng cả nước yêu thích.
Sự nghiêm cẩn trong lao động nghệ thuật cùng trái tim luôn nồng hậu tình yêu cuộc sống, mến yêu từng mảnh đất, mỗi con người, nhạc sĩ Đặng An Nguyên đã trao tặng cuộc đời những bài ca đầy ý nghĩa, hướng con người đến những cảm xúc tốt đẹp, lành mạnh.
Với “Chiều quê hương”, cố nhạc sĩ Đặng An Nguyên đã được UBND tỉnh tặng Bằng khen vì có tác phẩm VHNT tiêu biểu, xuất sắc giới thiệu về đất và người Thái Nguyên giai đoạn 1975-2025, có đóng góp quan trọng đối với sự nghiệp phát triển nền văn học nghệ thuật Việt Nam 50 năm sau ngày đất nước thống nhất.
Nguyễn Anh Thuấn
Thái Nguyên ơi!
Thái Nguyên ơi! Sao mà thương đến thế
Thái Nguyên ơi! Sao mà nhiều cách trở
Đường trập trùng mây núi thuở nào xa…
Tôi bơ vơ như một kẻ không nhà
Tôi lạc bước giữa chiều đầy sương khói
Ôi quá nửa đời người chưa gặp suối
Chưa gặp em ở chốn thật của mình!
Phố phường xa ai chả biết đẹp xinh
Một tình yêu không dễ gì cưỡng nổi
Gió cứ thổi. Và cây thì bối rối
Mây cứ bay. Và suối cứ đợi chờ…
Để tôi thành một kẻ bơ vơ
Nửa tỉnh nửa quê nửa đồng nửa núi
Để tôi khát cháy lòng bên ngọn suối
Giữa trong veo muốn hát lại đời mình!…
Lời bài hát “Chiều quê hương”
Đặng An Nguyên phỏng thơ Nguyễn Anh Thuấn
Anh đi giữa chiều đầy sương khói/ Một thoáng quê hương bóng chiều khuất núi/Thái Nguyên ơi dù đường dài cách trở/Đồi trập trùng mây núi thuở nào xa/Hương chè xanh xanh đến mượt mà/Về quê hương anh về nơi đầu suối/Giữa tươi xanh muốn hát lại đời mình/Gió cứ thổi mà cây thì bối rối/Mây mây cứ bay mà suối vẫn đợi chờ/Ôi suốt cả đời người mà như đi trong mơ/Ở một miền quê nửa đồng nửa núi/ Để anh khát cháy lòng bên đầu suối/Thái Nguyên ơi sao mà nhớ mà thương/Yêu tha thiết mỗi ráng chiều quê hương.
Cố nhạc sĩ Đặng An Nguyên sinh năm 1938 tại xã Mỹ Yên, huyện Đại Từ (nay là xã Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên). Ông tốt nghiệp Khoa Sáng tác, Nhạc viện Hà Nội (khóa 1967-1972), nguyên Trưởng ban Văn nghệ Đài Truyền hình Việt Nam. Năm 1974, ông viết nhạc cho phim truyện Dưới chân Núi Trắng, phim tài liệu Điện Biên ngày ấy. Một số tác phẩm khí nhạc tiêu biểu: biến tấu cho piano Biển và quê hương, ballade cho piano Con đường phía trước. Ông sáng tác hàng trăm ca khúc: Chiều Hà Nội nghe em hát, Chiều Mạc Tư Khoa, Mùa thu xanh, Chiều Hạ Long, Trăng hồ Núi Cốc, Chiều Hồ Gươm, Đôi bờ sông quê,… Ông được tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhì, Huy chương Vì sự nghiệp Phát thanh, Huy chương Vì sự nghiệp Báo chí, và một số huy chương, giải thưởng khác...Ông mất năm 2008.
Nhà thơ Nguyễn Anh Thuấn. |
||
Nhà thơ Nguyễn Anh Thuấn: Tôi nghe nhiều ca sĩ nổi tiếng như NSND Quang Thọ, NSND Nông Xuân Ái, ca sĩ Trọng Tấn,... trình bày ca khúc “Chiều quê hương” trên sóng phát thanh, truyền hình và trong các video ca nhạc. Giai điệu bài hát quá tuyệt vời, quấn quýt và nâng bổng những câu thơ, làm cho lời thơ trở nên mê đắm, nồng nàn, quyến rũ. Âm nhạc đã nâng lời thơ bay lên, lan tỏa và cao xa. Xin cảm ơn cố nhạc sĩ Đặng An Nguyên, các nghệ sĩ đã trình bày tuyệt hay bài hát này. Cảm ơn Đất và Người Thái Nguyên đã cho tôi những rung động đầu đời nồng ấm và thiết tha. Cảm ơn báo chí Thái Nguyên đã giới thiệu và lan tỏa ca khúc này. Cảm ơn bạn bè tôi ở Thái Nguyên và đông đảo mọi người trong cả nước đã ưu ái lắng nghe và chia sẻ nỗi lòng của nhạc sĩ và thi sĩ gửi gắm trong ca khúc.









Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin