1. Đất nước đã tròn 50 năm thống nhất. Cuộc chiến tranh bảo vệ và giải phóng quê hương vẫn để lại những dấu ấn sâu sắc trong đời sống tinh thần của mỗi người dân Việt Nam. Đó là những niềm vui, là nỗi buồn, là những kí ức lịch sử và là “bài ca không bao giờ quên” của dân tộc ta.
Những dấu ấn ấy đã trở thành điểm mốc quan trọng trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam không chỉ trong lịch sử mà cho hôm nay và mai sau. Có không ít ý kiến cho rằng, văn học giai đoạn 1945-1975 là văn học phục vụ kháng chiến, nó đã hết vai trò và nhiệm vụ ở thời kì hiện nay. Góc nhìn này mới chỉ phản ánh được một phần của đời sống văn học.
Ở mỗi thời kì lịch sử, vấn đề tiếp nhận văn học lại có những đặc điểm khác nhau. Nếu nhìn văn học trong góc nhìn của tiếp nhận và âm nhạc, chúng ta sẽ thấy có nhiều điều đáng phải bàn luận. Chúng tôi xin đưa ra một ví dụ về việc tiếp nhận văn học chiến tranh qua những bài thơ được phổ nhạc.
2. Trong tâm hồn mỗi người con của dân tộc Việt Nam, những ca khúc cách mạng (hay còn gọi là nhạc đỏ) đã nuôi dưỡng tâm hồn bao thế hệ. Rất nhiều bài thơ ở giai đoạn 1945-1975 đã được phổ nhạc để trở thành những ca khúc bất hủ không chỉ có giá trị nâng đỡ tâm hồn con người thời chiến mà là bản tráng ca khơi dậy lòng yêu nước và tự hào về lịch sử dân tộc cho giới trẻ hôm nay. Từ Lá đỏ, Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây đến Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân, Đất quê ta mênh mông, Dáng đứng Việt Nam,… đều là những ca khúc gợi hồn dân tộc như thế.
Tuy nhiên, vấn đề tiếp nhận các tác phẩm thơ thời kì kháng chiến đối với giới trẻ hiện nay ít được phổ biến.
Vậy có phương án nào để thế hệ 9X, 2K hiện nay có sự đồng cảm với lịch sử dân tộc qua những bài thơ? Tiếp nhận văn học qua âm nhạc cũng là một trải nghiệm thú vị và đầy sáng tạo cho các em học sinh phổ thông khi học về văn học chiến tranh giai đoạn 1945-1975 theo định hướng đổi mới dạy học hiện nay.
Trong chương trình giáo dục phổ thông hiện nay, một số bài thơ kháng chiến đã được đưa vào giảng dạy trong chương trình như: Lá đỏ (Nguyễn Đình Thi), Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật), Đồng chí (Chính Hữu), Khoảng trời hố bom (Lâm Thị Mỹ Dạ),… Tìm hiểu sự thăng hoa, giá trị, sức sống và mối quan hệ giữa thơ và nhạc qua một số tác phẩm thơ tiêu biểu thời kì chống Pháp và chống Mĩ được phổ nhạc trong văn học Việt Nam là một cách tiếp cận hữu ích. Qua đó khẳng định giá trị và sức sống của tác phẩm văn chương được phổ nhạc trong thời kì kháng chiến và trong tiếp nhận hôm nay. Hy vọng, những bài thơ được phổ nhạc sẽ thắp sáng truyền thống yêu nước, tự hào dân tộc trong tâm hồn những thế hệ trẻ hôm nay.
Trước hết, những bài thơ phổ nhạc là những khúc tráng ca bất tử về sự hy sinh và niềm lạc quan, tin tưởng vào chiến thắng. Chúng ta có thể kể đến: Lá đỏ (Nguyễn Đình Thi), Tây Tiến (Quang Dũng), Đồng chí (Chính Hữu), Năm anh em trên một chiếc xe tăng (Hữu Thỉnh), Anh vẫn hành quân (Trần Hữu Thung), Cô gái vót chông (Lô Mô Y Choi), Bài ca Trường Sơn (Gia Dũng), Dáng đứng Việt Nam (Lê Anh Xuân), Đầu sóng (Hoàng Trung Thông), Đường chúng ta đi (Xuân Sách), Nổi lửa lên em (Giang Lam), Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật),...
Đó là những bài thơ đã đi vào lòng người bao thế hệ qua sức mạnh của âm nhạc và những giai điệu.
Trong hai cuộc chiến trường kì của dân tộc, số lượng thơ được phổ nhạc nhiều nhất thuộc về thơ chống Mĩ. Thơ ca chống Mĩ vừa ra đời đã tạo cảm hứng cho âm nhạc với chung nhiệm vụ “Tiếng hát át tiếng bom”. Thơ là cơ sở nền tảng cho nhạc, nhạc cất cánh cho những vần thơ thăng hoa. Sự gặp gỡ giữa thơ và nhạc là sự cộng hưởng của tình yêu. Thơ đã làm sống dậy những ca khúc ở chính thời điểm ấy, hoặc sau đó.
Những ca khúc ra đời trở thành tiếng nói đồng điệu của hàng triệu con tim nhiều thế hệ. Nhà thơ Phạm Tiến Duật từng viết: “Mỗi trọng điểm là một nghĩa địa ô tô. Xác xe cháy ngổn ngang lưng đèo, đỉnh núi”. Không biết đã có bao nhiêu chiếc xe được thu gom từ những nghĩa địa xe đó. Có biết bao nhiêu tiểu đội xe vận tải sử dụng những chiếc xe như thế chở hàng trên khắp đường Trường Sơn, vậy mất kính chẳng là vấn đề với người lính mà còn tạo nên sự phóng túng, vui vẻ: Ung dung buồng lái ta ngồi/Nhìn đất nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhạc sĩ Doãn Nho đã tạo nên sóng nhạc hùng ca dựa trên bài thơ Năm anh em trên một chiếc xe tăng (Hữu Thỉnh) vốn được phối xen bằng trắc nhịp nhàng. Nhờ giai điệu vui tươi, tiết tấu nhanh, người lính xe tăng hiện lên đầy vui vẻ, phóng khoáng và không kém phần hóm hỉnh: Năm anh em trên một chiếc xe tăng/Như năm bông hoa nở cùng một cội/Như năm ngón tay trên một bàn tay/ Đã xung trận cả năm người như một,...
Nguyễn Đình Thi, người nghệ sĩ tài hoa ở cả lĩnh vực thơ và nhạc, thơ ông thường được nhiều nhạc sĩ chọn để phổ nhạc. Bởi sự nhạy cảm về tính nhạc, nốt nhạc được “kí hiệu hoá” qua âm thanh ngôn ngữ, nhiều câu thơ của Nguyễn Đình Thi tự nó đã là câu hát. Nhịp điệu của rừng Trường Sơn ào ào trút lá, đoàn quân ra trận trong sương khói của bụi đất chiến trường: Gặp em/trên cao lộng gió/Rừng lạ/ào ào lá đỏ/Em đứng bên đường/Như quê hương/Vai áo bạc/ quàng súng trường. Nhạc sĩ Hoàng Hiệp chỉ đổi “rừng lạ” (thanh trắc) sang “rừng Trường Sơn” (thanh bằng) đã tạo nên được sức vang ngân. Ca khúc ấy đã vang lên trong dịp mừng đại thắng mùa xuân năm 1975. Những đoàn quân dường như được nối dài vô tận không ngừng nghỉ, nhà thơ cũng là người chiến sĩ chỉ vừa kịp ghi nhận dáng hình của quê hương rồi gửi lời chào và hẹn gặp: Chào em, em gái tiền phương/Hẹn gặp nhé giữa Sài Gòn. Sài Gòn, điểm hẹn của bao thế hệ Việt Nam. Sài Gòn, cái đích của cuộc tiến công đã rất gần, con đường đi đến chiến thắng chẳng còn bao xa. Lời chào, lời hẹn ấy chứa đựng biết bao nhiêu nhiệt huyết của tuổi trẻ, của lý tưởng độc lập tự do, của niềm lạc quan tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng. Các yếu tố nghệ thuật làm nên thành công của Lá đỏ là hình ảnh, nhịp điệu và ngôn ngữ thơ. Bài thơ Lá đỏ của Nguyễn Đình Thi là một bài thơ rất thành công trong hệ thống những bài thơ viết về đất nước của ông và của cả nền thơ ca cách mạng.
Những bài thơ phổ nhạc thời kì kháng chiến còn thể hiện tình yêu quê hương, Tổ quốc và ngợi ca người lãnh đạo tài ba - Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những bài thơ này được phổ nhạc mang hình tượng đẹp, vừa hùng tráng, vừa tha thiết, trữ tình. Đó là hình tượng nhân dân, con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổ quốc mang tầm vóc lịch sử, âm hưởng hùng ca, kích thước sử thi hoành tráng (Đêm nay Bác không ngủ; Đôi dép Bác Hồ; Bước chân trên dải Trường Sơn; Ta tự hào đi lên, ôi Việt Nam; Dáng đứng Việt Nam; Anh vẫn hành quân; Đường chúng ta đi; Tiếng đàn bầu; Bóng cây kơ nia,…).
Bài hát Đường chúng ta đi được xếp vào những bài hát hay nhất trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Không những thế, nó còn cổ vũ ý chí cho nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ và mang đậm tính thời đại quan trọng:“Việt Nam trên đường chúng ta đi/Nghe gió thổi đồng xanh quê ta đó/Nghe sóng biển ầm vang xa tận tới chân trời… Dặm đường xa ta đi giữa mùa Xuân/Ta đi giữa tình thương của Đảng/Tiếng Bác Hồ rung động mãi trong tim/Đường ta đi ánh lửa soi đêm dài/Đường ta về trong nắng ấm ban mai/Việt Nam, Việt Nam...”.
Bài thơ Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng như một lời tuyên ngôn, lòng tri ân của những người bị áp bức nô lệ lên khắp hành tinh đối với vị cứu tinh Đảng Cộng sản. Bài thơ có một sự trùng hợp ngẫu nhiên về cảm xúc, về tâm trạng của nhà thơ L. Aragon với nhà thơ Tố Hữu trong bài thơ “Từ ấy”. Sự nhận thức về Đảng khiến nhà thơ “sáng mắt” “sáng lòng” đó là xuất phát từ “trái tim đỏ và tim tôi yêu nước”. “Sáng mắt” khi nhà thơ nhận ra được lẽ phải và lẽ phải đó được dựa trên một nguyên lý, một chủ nghĩa đúng nhất, hay nhất và đem lại lợi ích cho nhân dân, dân tộc nhiều nhất. Nhạc sĩ Phạm Tuyên đã phổ nhạc cho bài thơ này với giai điệu ngân vang, đầy tha thiết: Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng/Trước như tuổi thơ tôi nào biết đường/Máu tôi đỏ và tim tôi yêu nước/Tôi chỉ biết là đêm tối mênh mông/Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng”.
Bên cạnh đó, bài thơ Đất quê ta mênh mông đã được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc và nhanh chóng lưu dấu ấn sâu sắc trong lòng người nghe. Hình ảnh người mẹ trong thơ Dương Hương Ly được lấy nguyên mẫu từ mẹ Mua. Người mẹ đã từng nuôi giấu nhà thơ ở khu căn cứ K20, chính mẹ là nguồn cảm hứng để anh viết nên những câu thơ: “Mẹ đào hầm từ thuở tóc còn xanh/Nay mẹ đã phơ phơ đầu bạc...” nổi tiếng ấy!”. Điều làm nên sức sống của bài thơ chính là dù viết về một người mẹ cụ thể nhưng vẻ đẹp của mẹ là vẻ đẹp và sức mạnh của cả một dân tộc anh hùng. Người mẹ của những cuộc đời cụ thể và người mẹ tượng trưng cho đất nước. Chưa bao giờ đất nước và người mẹ lại hiện ra đẹp đẽ đến như thế. Người mẹ bình thường nhưng vĩ đại đã hiện lên trong những dòng thơ đầy ám ảnh, kết tinh vẻ đẹp của cả một thời đại chống Mỹ. Có một điều tưởng chừng rất nghịch lí được thể hiện trong thơ Dương Hương Ly:“Đất quê ta mênh mông/Quân thù không xâm chiếm được/Lòng mẹ rộng vô cùng/Đủ giấu cả sư đoàn dưới đất/Nơi hầm tối lại là nơi sáng nhất/Nơi con tìm ra sức mạnh Việt Nam”. Sức mạnh của cả dân tộc được tạo thành từ ơn sinh thành của những người mẹ, hội tụ lòng nhân ái và chủ nghĩa anh hùng. Từ công việc lặng thầm của mẹ nhà thơ phát hiện ra sức mạnh Việt Nam. Mẹ đã truyền cho những người chiến sĩ thêm sức mạnh để tiêu diệt kẻ thù.
Trong số những bài thơ được phổ nhạc giai đoạn 1945-1975, một phần lớn bài thơ thể hiện tình yêu cá nhân hoà cùng tình yêu đất nước.
Điều này được thăng hoa qua những nốt nhạc da diết mà không bi luỵ. Âm hưởng lạc quan của văn học đã tạo ra trong âm nhạc khúc hoà ca đồng vọng – sự đồng vọng của tình yêu và lẽ sống.
Chúng ta có thể kể tới: Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây (Phạm Tiến Duật), Tình em (Hồ Ngọc Sơn), Thuyền và biển (Xuân Quỳnh), Hương thầm (Phan Thị Thanh Nhàn), Bóng cây Kơ nia(Ngọc Anh), Gửi miền hạ (Hoài Vũ).
Trong thơ Việt Nam, cách hoà âm là cách hoà phối các thanh điệu, kết hợp âm thanh theo một kiểu nhất định. Từ một bài thơ, nhưng cách tổ chức âm thanh khác nhau sẽ cho kết quả hoàn toàn khác nhau. Chẳng hạn như bài thơ Tình em (Hồ Ngọc Sơn) đã tạo cảm hứng cho các nhạc sĩ như: Hoàng Vân, Phan Huỳnh Điểu, Hoàng Việt và Huy Du, nhưng cuối cùng chỉ có ca khúc do nhạc sĩ Huy Du phổ nhạc mới có sức sống lâu bền trong đời sống âm nhạc: Khi chiếc lá xa cành/Lá không còn màu xanh/Mà sao em xa anh/Đời vẫn xanh vời vợi… Lời thơ như một khúc ca dịu ngọt chắp cánh cho những nốt nhạc trữ tình dìu dặt trầm bổng ngân xa. Ca khúc đã trở thành một bài hát trong dòng nhạc đỏ, được nhiều người ở mọi thế hệ yêu thích. Bởi những sự chia ly của họ không phải đại diện cho cá nhân mà nhân danh cộng đồng, hy sinh vì cộng đồng, “khi Tổ quốc cần họ biết sống xa nhau” (Nguyễn Mỹ): Có gì đâu em ơi/Tình yêu là sự sống/Nên nắng ửng trong lòng/Mạch đời căng máu nóng.
Từ cuộc chiến tranh gian khổ của dân tộc, không ít bài thơ đã được phổ nhạc và trở thành những khúc ca bất hủ, sống mãi trong lòng người. Cảm hứng từ chiến tranh, sự hy sinh gian khổ của người lính không chỉ phản ánh chân thực cuộc chiến đấu gian khổ của quân dân ta, mà còn góp phần khích lệ tinh thần của những con người ở tiền phương, đối đầu với mưa bom, bão đạn.
Tuy chiến tranh để lại đau thương, mất mát nhưng những bài thơ giai đoạn này không thể hiện sự bi luỵ, chết chóc của chiến tranh mà luôn thiết tha một tình yêu và sự lạc quan trước hiện thực ấy. Thơ đã thể hiện được niềm tin vào ngày mai, tình yêu lãnh tụ, yêu quê hương và tình yêu lứa đôi rực cháy. Các bài thơ, ca khúc đã bổ sung thêm động lực, chỉ ra và hướng tới cái đích cuối cùng mà triệu người dân Việt Nam khao khát mong chờ - kháng chiến thành công.
Hiện nay, trong Chương trình Giáo dục phổ thông 2018, nhiều bài thơ giai đoạn 1945-1975 được đưa vào giảng dạy, việc tiếp cận văn học từ âm nhạc sẽ giúp thế hệ trẻ nuôi dưỡng ngọn lửa yêu nước, trân trọng vốn văn hoá của dân tộc. Ngoài việc tiếp cận những bài thơ đã được phổ nhạc có trong chương trình, chúng ta cũng có thể mở rộng ngữ liệu cho người học qua những bài thơ được phổ nhạc viết về chiến tranh giai đoạn 1945-1975.
Dân tộc ta đã trải qua một thời như thế - một thời mưa bom bão đạn, một thời đau thương nhưng vẻ vang, hy sinh, mất mát nhưng luôn sáng ngời tinh thần lạc quan. Các thế hệ cha anh đã không ngừng nghỉ tiếp sức để làm nên chiến thắng qua hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.
Thơ giai đoạn 1945-1975 đã khắc hoạ ấn tượng và sâu sắc hiện thực ấy. Không chỉ vậy, có những bài thơ đã cất cánh bay cao để thể hiện ước vọng và niềm tin chiến thắng, tình yêu Tổ quốc và quê hương.
Thơ và nhạc đã gặp nhau ở sự thăng hoa của cảm xúc và giai điệu. Ở đây, tư duy nghệ thuật thơ và tư duy nghệ thuật âm nhạc bắt gặp nhau ở khía cạnh xúc cảm tâm hồn nối những miền sâu thẳm trong trực giác và vô thức để cất lên tiếng đồng vọng ngợi ca tổ quốc, tình yêu và những con người dũng cảm.
3. Đất nước đã thống nhất tròn 50 năm nhưng những dấu ấn lịch sử vẫn luôn được trân trọng. Thơ kháng chiến đã chắp cánh thành ca khúc đi cùng năm tháng, là suối nguồn nhạc đỏ nuôi dưỡng trái tim những người con đất Việt. Bạn và tôi, bao thế hệ đi sau nữa sẽ vẫn còn “vang mãi khúc quân hành” về một thời cha ông chúng ta đã sống như thế. Tôi tin rằng những ca khúc được phổ thơ vẫn còn tiếp tục vang xa như nó đã từng ngân lên trong lòng những động đội đã hy sinh nay nó mang hơi thở mới, thậm chí được phối khí mới mang hơi thở của thời đại và truyền lửa cho thế hệ trẻ hôm nay.
Ngày nay, trong thế giới phẳng không còn biên giới và những khoảng cách, sự hội nhập của Việt Nam với thế giới là cần thiết. Nhưng trong sự hội nhập đó có một bộ phận giới trẻ dường như đang đánh mất mình. Họ hát bài hát nước ngoài, họ ăn mặc, trang điểm như ca sĩ nước ngoài và thể hiện những bài hát như là bản sao của ca sĩ nước ngoài. Người ta gọi đó là xu hướng Hàn hoá, Anh hoá trong đời sống âm nhạc và tinh thần của giới trẻ Việt. Vậy làm sao để họ thấu hiểu lịch sử và tin yêu, trân trọng, tự hào văn hoá Việt? Có rất nhiều giải pháp khác nhau, nhưng chúng tôi nghĩ rằng những bài ca đi cùng năm tháng đã được phổ nhạc thơ giai đoạn 1945-1975 sẽ là những món ăn tinh thần giúp họ thức nhận về giá trị của “sống đẹp”!
Chúng tôi mong muốn sẽ có những sân chơi âm nhạc không chỉ trên truyền hình (với những chương trình rất ý nghĩa như: Giai điệu tự hào; Quán thanh xuân…) mà ngay cả ở những trường học cũng cần có những sân chơi âm nhạc truyền lửa với những dấu ấn lịch sử đáng tự hào và trân trọng của ông cha. Có như vậy, căn cốt Việt mới không nhạt nhoà trong hành trang của các bạn trẻ hôm nay.
Chúng tôi tin rằng trong thẳm sâu trái tim của các bạn trẻ hôm nay vẫn luôn có một đốm lửa của ông cha truyền lại, chỉ có điều chúng ta chưa biết khơi đúng cách. Bằng chứng là Khoa Ngữ văn, Trường ĐHSP Thái Nguyên đã luôn có những tiết mục độc đáo và được giải cao khi xây dựng các tiết mục văn nghệ từ những dấu ấn của lịch sử dân tộc. Những tiết mục đó thường tạo nên sự đồng cảm của rất nhiều bạn trẻ. Họ hiểu hơn, yêu hơn cha ông và dân tộc mình. Hy vọng rằng các cấp ngành liên quan cần có những chính sách có thể phát triển và nuôi dưỡng văn hoá Việt trong lòng các bạn trẻ hôm nay, để văn hoá Hàn, Mĩ hay Nhật không thể “lăm le đè lụi” văn hoá Việt.







Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin