Có một người họa sĩ hóa vào mây

Nguyễn Gia Bảy 11:33, 28/10/2025

Có những con người, khi đã khép lại hành trình trần thế, vẫn để lại trong lòng thế hệ sau một ngọn lửa ấm áp, soi rọi và tiếp sức cho bao khát vọng. Cố họa sĩ Dương Thị Nội - người phụ nữ Tày nhỏ bé nơi đại ngàn Việt Bắc, là con người như thế. Bà không chỉ là một tài năng hội họa, một giảng viên mẫu mực, lặng lẽ hiến dâng trọn đời mình cho nghệ thuật và cho quê hương.

Cố Họa sĩ Dương Thị Nội (1947 - 1998)
Cố Họa sĩ Dương Thị Nội (1947 - 1998)

Dấu chân đầu đời của nữ hoạ sĩ trẻ

Năm 1963, khi đất nước còn chìm trong khói lửa chiến tranh, cô gái trẻ Dương Thị Nội đã rời bản làng để theo học lớp Trung cấp Mỹ thuật khóa 1963 - 1966. Đây là một khóa học đặc biệt, hội tụ nhiều tài năng, sau này trở thành những tên tuổi lớn: họa sĩ Nguyễn Lương Tiểu Bạch (nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam), họa sĩ Trương Bé (nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Nghệ thuật Huế), họa sĩ Nguyễn Hoàng (nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Mỹ thuật TP. Hồ Chí Minh), họa sĩ Khăm Súc (nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Mỹ thuật Quốc gia Lào)...

Tác phẩm: Mùa hoa lê
Tác phẩm: Mùa hoa lê

Trong không gian đào tạo ấy, Dương Thị Nội đã bộc lộ một phong cách riêng: mộc mạc, tinh tế, giàu chất trữ tình. Nếu nhiều đồng môn hướng tới những bút pháp hàn lâm, mạnh mẽ, thì bà lại tìm thấy “chân trời sáng tạo” trong chính đời sống giản dị của người dân miền núi phía Bắc.

Những năm đầu sau khi ra trường, bà công tác trong ngành văn hóa (Ty Văn hóa), tham gia phục vụ tuyên truyền ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Hình ảnh người dân lao động, nếp sinh hoạt chốn bản làng, hội lồng tồng,  chợ phiên vùng cao… đã trở thành nguồn mạch bất tận nuôi dưỡng cảm hứng sáng tác. Đó là những bước chân đầu đời, cũng là nền tảng để bà viết nên hành trình nghệ thuật sau này.

Từ người sáng tạo đến người truyền lửa nghệ thuật cho học trò vùng Việt Bắc

Sau thời gian gắn bó với ngành văn hóa, năm 1978 họa sĩ Dương Thị Nội trở thành giảng viên Trường Trung học Văn hóa Nghệ thuật Việt Bắc (nay là Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Việt Bắc). Trọn hai mươi năm đứng trên bục giảng, bà đã đào tạo hàng nghìn sinh viên - phần lớn là con em các dân tộc thiểu số vùng Việt Bắc.

Học trò của bà luôn nhớ về một người thầy nghiêm khắc nhưng giàu lòng nhân ái. Bà dạy không chỉ kỹ thuật, mà còn truyền lửa đam mê, khơi dậy ý thức gắn bó giữa nghệ thuật và bản sắc dân tộc. Những chuyến đi thực tế cùng bà đến bản Nản, núi Đôi, hay những phiên chợ vùng cao, đã giúp học trò hiểu rằng: nghệ thuật không ở đâu xa, nó nằm trong chính cuộc sống thường ngày, trong nụ cười, ánh mắt, dáng ngồi, điệu múa của đồng bào.

Tác phẩm: Bản mới
Tác phẩm: Bản mới

Nhiều học trò của bà sau này đã trở thành giảng viên, cán bộ văn hóa, nghệ sĩ ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang, Thái Nguyên... Họ mang theo ngọn lửa mà bà đã thắp, tiếp tục gieo mầm nghệ thuật trên mảnh đất quê hương.

Không chỉ sáng tác và giảng dạy, họa sĩ Dương Thị Nội còn có vai trò đặc biệt trong đời sống mỹ thuật địa phương. Bà là Chi hội trưởng đầu tiên của Chi hội Mỹ thuật tỉnh Bắc Thái (nay là Thái Nguyên). Ở cương vị ấy, bà không chỉ tổ chức hoạt động, mà còn kết nối đồng nghiệp, xây dựng một cộng đồng nghệ thuật gắn bó, sáng tạo. Chính bà là người đặt nền móng để mỹ thuật Thái Nguyên sau này từng bước hội nhập với khu vực và cả nước.

Cố họa sĩ không chỉ được nhớ đến như một nghệ sĩ tài năng, mà còn là “người truyền lửa” cho đồng nghiệp, cho thế hệ trẻ.

Với những đóng góp lặng lẽ nhưng bền bỉ, họa sĩ Dương Thị Nội được trao tặng Huy chương Vì sự nghiệp Mỹ thuật Việt Nam. Bà ra đi ngày 05 tháng 10 năm 1998 (tức ngày Trung thu năm Mậu Dần), để lại khoảng trống lớn trong lòng đồng nghiệp, học trò và những người yêu nghệ thuật. Nhưng tranh của bà - và hơn thế, tinh thần của bà - vẫn hiện hữu, như dòng suối mát lành chảy mãi trong đời sống văn hóa dân tộc.

Bà sống giản dị, hiền hòa, chưa bao giờ tự nhận mình lớn lao. Nhưng chính sự khiêm nhường ấy đã làm nên một giá trị bền vững. Người đời nhớ đến bà không chỉ qua tranh, mà qua cả nhân cách - người phụ nữ Tày bé nhỏ mà kiên cường, người nghệ sĩ tài hoa mà khiêm nhường, người thầy nghiêm khắc mà giàu tình thương.

Người giữ hồn văn hoá các dân tộc vùng Việt Bắc trong tranh

Trong dòng chảy nghệ thuật Việt Nam nửa sau thế kỷ XX, họa sĩ Dương Thị Nội đã để lại những dấu ấn đậm nét. Bà đặc biệt thành công với chất liệu khắc gỗ màu - một thể loại đòi hỏi sự kiên nhẫn, tinh tế và sáng tạo.

Năm 1975, ngay sau ngày đất nước thống nhất, bà hoàn thành bức khắc gỗ màu “Làm ghế trúc” (50 x 70cm). Đây là một tác phẩm tiêu biểu không chỉ ở kỹ thuật, mà còn ở chiều sâu cảm xúc. Bức tranh tái hiện xưởng thủ công nhỏ ở Bắc Kạn - nơi người dân làm nghề mành trúc, bàn ghế trúc. Bằng bố cục truyền thống “ba ngồi hai đứng”, bằng ánh sáng chan hòa và nét khắc mềm mại như tranh lụa, bà đã tôn vinh vẻ đẹp lao động, khẳng định tinh thần phục hồi và kiến tạo trong thời kỳ hậu chiến. “Làm ghế trúc” trở thành một tuyên ngôn lặng thầm nhưng hùng hồn: rằng nghệ thuật có thể nảy nở từ đôi bàn tay chai sạn của người dân quê mộc mạc.

Không dừng lại ở một tác phẩm, cả đời sáng tác của bà là một hành trình lưu giữ văn hóa qua hội họa. Chất liệu lụa - một chất liệu khá hiếm hoi với họa sĩ vùng Việt Bắc, nhưng bà vẫn chắt chiu đồng lương của mình để thửa về những tấm lụa trắng bông, để rồi “thổi hồn” cho những tác phẩm ra đời. Những bức “Mùa gặt”, “Chọn giống ngô”, “Hội lồng tồng”, “Bản Nản”, “Góc chợ trao duyên”, “Mùa xuân trên núi Đôi”, “Làm thủy lợi”, “Mở đường trên quê mới”, “Tỉn khau”... đã khắc họa sống động cuộc sống miền núi phía Bắc. Tranh của bà không đơn thuần sao chép hiện thực, mà chứa đựng chiều sâu biểu cảm, đưa người xem vào một thế giới mộc mạc nhưng chan chứa tình người.

Nếu sử học ghi chép bằng văn bản, thì hội họa của Dương Thị Nội chính là những “trang ký sự bằng sắc màu”, lưu giữ nếp sống, phong tục, lễ hội của đồng bào nơi Việt Bắc.

Các nhà nghiên cứu mỹ thuật đánh giá, tranh của Dương Thị Nội mang một bản sắc riêng khó nhầm lẫn. Nếu nhiều họa sĩ cùng thời thiên về biểu đạt những đề tài lớn lao, bà lại chọn những cảnh sinh hoạt thường nhật, những chi tiết nhỏ bé mà gần gũi, từ đó dựng nên bức tranh toàn cảnh về đời sống miền núi. Chính sự lựa chọn ấy tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc, đưa tranh của bà vượt khỏi giới hạn thẩm mỹ đơn thuần để trở thành một tư liệu văn hóa. Trong tranh lụa của Dương Thị Nội, sắc trắng không bao giờ nhợt nhạt, mà là thứ ánh sáng ngọt ngào, nâng đỡ nhân vật và lan tỏa sự sống. Bà đã khiến tranh lụa vùng Việt Bắc có giọng điệu riêng - vừa mộc mạc, vừa tinh tế. Một số đồng nghiệp thì coi tranh khắc gỗ của bà như “những bài thơ bằng đường nét”, nơi kỹ thuật và cảm xúc hòa quyện, để lại dư âm lâu bền trong tâm trí người xem.

Tác phẩm: Làm ghế trúc
Tác phẩm: Làm ghế trúc

Có thể nói, di sản của Dương Thị Nội không chỉ nằm ở số lượng tác phẩm, mà ở chiều sâu văn hóa mà chúng mang lại. Bằng cây cọ và lưỡi dao khắc, bà đã viết nên “biên niên sử bằng sắc màu” của vùng Việt Bắc, một biên niên sử vừa hiện thực, vừa thấm đẫm tâm hồn nghệ sĩ.

Thay lời kết

Hơn 30 năm dấn thân trên mặt trận văn hóa, cố họa sĩ Dương Thị Nội đã sống trọn một đời tận hiến. Bà để lại cho hậu thế không chỉ là những tác phẩm hội họa giàu giá trị nghệ thuật, mà còn là tấm gương sáng về lòng yêu quê hương, niềm tin vào văn hóa dân tộc, và sự thủy chung với con đường nghệ thuật.

Họa sĩ Dương Thị Nội - một “nữ chiến sĩ” trên mặt trận văn hóa - sẽ mãi là niềm tự hào của hội họa Việt Nam, của Việt Bắc giàu bản sắc, và của những thế hệ tiếp bước con đường nghệ thuật.

Tôi xin mượn bài thơ “Nhớ một sắc màu” của Nhà văn Hồ Thủy Giang để nói về tấm lòng của Văn nghệ sĩ Thái Nguyên nhớ về cố hoạ sĩ:

“Tôi đâu biết có một chiều vơi nắng

“Xuân núi đồi” mà trời chuyển heo may

Tiếng chim hót bỗng dừng trên giá vẽ

Có một người hoạ sĩ hoá vào mây.

 

Tôi đâu biết có một chiều ngưng gió

Nửa sắc mầu Bắc Kạn chợt phai

"Mùa hoa lê” cuối cùng không nở nữa

Nét họa buồn như một cuộc chia ly

 

Tôi đâu biết có một chiều dang dở

Lá thông vàng lã chã phố Đức Xuân

"Gốc chợ trao duyên” mình ai đứng ngóng

Cố xua đi những họa tiết âm thầm.

 

Nội ra đi, biết bao người thương nhớ

Mà chiều nay sao hoa trắng trắng trời?

Thôi vĩnh biệt, bạn bè xin chúc Nội

“Hội tung còn” nơi ấy được thành đôi.”