VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ:
- Nhà thơ Lã Thị Thông sinh ngày 15/11/1957, dân tộc Tày, thường trú phường Phan Đình Phùng, tỉnh Thái Nguyên.
- Hội viên Hội VHNT tỉnh Thái Nguyên, Hội viên hội VHNT các Dân tộc thiểu số Việt Nam.
- Tác phẩm:
+ Gió thì thầm (thơ) NXB Hội Nhà văn - 2021
+ Trăng núi (thơ) NXB Hội Nhà văn - 2022
+ Sông Cầu đêm chảy ngược (thơ) NXB Hội Nhà văn - 2024
- Giải thưởng:
+ Giải thưởng cuộc thi viết văn xuôi "Tôi và Thái Nguyên" - Hội VHNT tỉnh Thái Nguyên năm 2021
+ Giải thưởng Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam - 2022
+ Giải thưởng Cuộc thi sáng tác quảng bá tác phẩm văn học, nghệ thuật và báo chí về chủ đề “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” đợt II, năm 2025 của Tỉnh Thái Nguyên
+ Giải thưởng Hội VHNT tỉnh Thái Nguyên về cuộc vận động sáng tác quảng bá các tác phẩm văn học nghệ thuật hướng tới kỷ niệm 50 năm ngày thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2025)
Ấn phẩm VNTN xin giới thiệu bài viết của nhà văn Hồ Thủy Giang về tập thơ "Trăng núi".
![]() |
| Nhà thơ Lã Thị Thông |
So với nhiều nhà thơ ở Thái Nguyên, Lã Thị Thông là một trường hợp khá đặc biệt. Xuất phát từ một cô giáo dạy văn, chuyển sang làm công tác thanh niên, rồi lại tiếp tục có sự thay đổi trong công việc, trở thành Trưởng khoa Xây dựng Đảng của Trường Chính trị tỉnh. Khi nghỉ hưu, tham gia vào một câu lạc bộ khiêu vũ với mục đích thư giãn tuổi già. Hành trình công tác của Lã Thị Thông hầu như không "dính dáng" gì đến văn chương. Nhưng rồi cuộc đời cũng giống như dòng sông, có khúc xiết, khúc lặng, khúc bổng, khúc trầm, khúc buồn vui, say đắm...
Vào độ tuổi 60, bỗng dưng như có sự "nở hoa" trong tâm hồn, hay có một lương duyên, chị bắt đầu viết những câu thơ đầu tiên, có lẽ cũng chỉ với mục đích giãi bày tâm trạng. Vậy mà rồi, thơ với chị, giống như "tình yêu sét đánh", thoáng gặp nhau đã có lời hứa hẹn thủy chung son sắt trọn đời.
Dăm năm cầm bút, Lã Thị Thông viết như "say nắng", đã lần lượt xuất bản tới ba tập thơ. Và một niềm vui, một phần thưởng tinh thần bất ngờ đến với chị: trong vòng ba năm, đã "ẵm" tới ba giải thưởng văn học ở địa phương và một giải thưởng của Liên hiệp các hội VHNT Việt Nam, một giải thưởng thường phải là những cây bút xuất sắc ở các địa phương mới có được. Có thể nói, chưa một tác giả mới cầm bút nào ở Thái Nguyên đạt được những thành tựu như vậy.
Trong sáng tác văn học, các cây bút có trách nhiệm và mang tính chuyên nghiệp, thường luôn muốn tìm cho mình một quê hương văn học. Ở thế giới hay trong nước đều như vậy. Ví như Mạc Ngôn (Trung Quốc) đã lấy vùng quê Cao Mật làm không gian địa lí cho hầu hết các tác phẩm của ông. Mọi tác phẩm, dù là đề tài lịch sử hay hiện đại cũng đều có không gian, tinh thần thời đại của vùng Cao Mật quê hương ông; hay nhà văn Cao Duy Sơn ở ta, dường như trong mỗi tiểu thuyết, mỗi truyện ngắn của ông đều thấy bóng dáng đất và người với những tính cách đặc sắc, riêng biệt của vùng núi Cô Sầu, Cao Bằng, nơi ông sinh ra và trưởng thành… Tạo được một "quê hương văn học" như vậy không phải nhà văn, nhà thơ nào cũng làm nổi hoặc có điều kiện để thực hiện, đặc biệt là đối với các cây bút còn chưa đủ từng trải, đủ tầm trong nghề.
Nhưng với Lã Thị Thông lại có phần hơi khác. Ngoại trừ tập "Gió thì thầm" là tập thơ đầu tay, ít nhiều có sự pha trộn đề tài, thấy gì viết nấy, những tác phẩm về sau của chị, người đọc đã nhận thấy khá rõ ràng dù một bài thơ, hay một tản văn nghìn chữ đều hầu hết tập trung vào đề tài miền núi, cụ thể hơn là hình ảnh của miền núi Cao Bằng, Bắc Kạn, là hai quê nội, ngoại mà chị đã từng sống suốt thời thơ ấu và tuổi hoa niên. Thiết nghĩ, đây không phải là sự vô tình hay ngẫu nhiên, cũng không chỉ vì chị là người gốc Bắc Kạn (cũ), mà tất cả dường như đã được tác giả xác quyết ngay trong ý thức sáng tạo, được định hình trong những bước đi đầu tiên của đời cầm bút.
![]() |
"Trăng núi" là tập thơ đoạt Giải Khuyến khích của Liên hiệp các hội VHNT Việt Nam, một tập thơ khá dày dặn với gần 50 bài thơ. So với tập thơ đầu, thì "Trăng núi" có một bước tiến, nếu chưa muốn nói là sự bứt phá của tác giả. Nếu ai đã từng đọc "Gió thì thầm", rất dễ nhận ra ở "Trăng núi", tác giả đã có những đổi mới về bút pháp cũng như giọng điệu.
Nếu như ở "Gió thì thầm", theo một vài nhà phê bình nhận định, là một tập thơ tuy cũng khá đậm đặc chất miền núi nhưng mới chỉ là những hồi tưởng, những hoài niệm chân thành, thì ở tập thơ thứ hai này, Lã Thị Thông đã không dừng lại ở đấy. Tiếp tục phát huy thế mạnh của lối viết hồi tưởng, "Trăng núi" đã bắt đầu tạo được cái nhìn mới, sâu sắc hơn, không chỉ ở nội dung mà cả trong thi pháp.
1- Những hồi tưởng về quê núi.
Khi nói về tập "Gió thì thầm", một nhà phê bình đã có nhận định: "Hồi tưởng là một thủ pháp bao trùm lên toàn bộ tập “Gió thì thầm”. Đó là những hồi tưởng về những “Bản nhỏ”, những “Phố núi”, những “Chợ phiên”, Những "Suối nguồn", "những “Hương rừng”, những kỉ niệm tình yêu, thậm chí chỉ là hồi tưởng về một giọt sương đầu mùa trong heo may… Đặc biệt tác giả đã dành cho sự hồi tưởng về mẹ bằng những vần thơ, những thi ảnh… vô cùng cảm động"
Ở "Trăng núi" ta cũng gặp thủ pháp hồi tưởng của tác giả nhưng trong một tâm thế mới, phong phú hơn. Vẫn là miền quê núi xưa nhưng tác giả không chỉ dừng lại ở cái nhìn chân phương như trong "Gió thì thầm" mà là cái nhìn đa chiều, đa âm, đa nghĩa… Không chỉ bằng mắt mà bằng trái tim, bằng cảm thức và sự tưởng tượng đôi khi vượt qua ngưỡng hiện thực.
Hình ảnh những cô gái Tày trong "Trăng núi" đã được nâng lên thành những hình tượng, những nét đẹp đầy lãng mạn:
Con gái Tày
Bàn tay khéo nhuộm, thêu
Mùa thổ cẩm
Dệt mùa trăng thao thức
Mang hình núi hình khe
Dệt vào xa lắc
Dải lưng chàm thắt chặt hồn ai.
(Con gái Tày)
Trong mạch hồi tưởng về quê núi, thì những hình ảnh áo chàm, bếp lửa nhà sàn, nương rẫy, bậc cầu thang, quả còn, câu Then, lời Sli, điệu Lượn… luôn là những điểm nhấn trong thơ Lã Thị Thông. Viết về những hình ảnh có vẻ quen thuộc này tưởng dễ mà khó. Khó vì đã quá nhiều nhà thơ viết về nó rồi, nếu không có gì mới thì sẽ nhàm chán. Lã Thị Thông ít nhiều đã tránh được sự lặp lại. Hãy hình dung từ những câu thơ chị nói về bậc cầu thang vốn rất quen thuộc của nhà sàn. Với tác giả, cái cầu thang không chỉ là vật dụng để lên, xuống thông thường mà là những bước chân của một kiếp người, là những bước chân "nuôi mơ ước", "nối đất với trời", để tới những "bước đi xa xôi". Cái cầu thang ấy từng in dấu những bàn chân đầu tiên từ buổi mẹ (người phụ nữ Tày) về nhà chồng, gánh trên vai bao trách nhiệm thiêng liêng về gia đình, dòng họ:
Ngập ngừng xưa mẹ bước
Lên bậc thang nhà người
Chín bậc nghiêng nghiêng nắng
Xà tích bạc buông lơi
(Cầu thang)
Rồi cái cầu thang ấy đã trải qua bao nắng mưa cùng mẹ, đến trọn cuộc đời, để một ngày, cháu con lại tiễn đưa mẹ qua cầu thang về miền mây trắng. Vì vậy, những chiếc cầu thang mới có hồn vía, mới có tình người, mới trở thành những ký ức mãi in dấu trong tâm khảm những đứa con xa:
Cầu thang theo năm tháng
Màu gỗ bầm nắng mưa
Mẹ về miền mây trắng
Từng nấc thang tiễn đưa
(Cầu thang)
Nhưng câu Sli, câu Lượn, tiếng Tính, tiếng khèn, những quả còn, quả pao, chiếc khăn chàm… trong thơ Lã Thị Thông cũng thường mang những nét riêng. Đó là những tiếng khèn "gọi bao nhiêu mùa mây", "gọi bao nhiêu mùa sương", "gọi nắng về tan sương", "gọi cong bông mùa lúa". Đó là những quả còn "theo em lên nương", đưa "giấc mơ theo lên đỉnh núi". Đó là những "Câu sli câu lượn trong veo/Nẩy xanh nỗi nhớ lời yêu ngập ngừng"…
Một điểm mạnh nữa, rải rác trong tập thơ, ta luôn được gặp những câu thơ, những từ ngữ, những thi ảnh đẹp, mang đặc trưng miền núi:
Hoa tam giác mạch mang hồn của đá
Tiếng khèn xoay mang hồn của trời
Chiếc lá trên môi rung hồn thiếu nữ
Vòng bạc lấp lánh tiếng cười
(Lên bản Tèn)
Hoặc:
Theo nhịp cầu thang về ngôi nhà cổ
Bảy bậc vía ông, chín bậc vía bà
Cổ tích thời gian giấu trong mái lá
Chỗ mẹ nằm còn ăm ắp lời ru
(Cổ tích thời gian)
2- Những tín hiệu thơ hiện đại
Các nhà thi pháp học hiện đại thế kỉ XX quan niệm: "Văn chương là ảo giác của hiện thực". Vẫn qua thủ pháp hồi tưởng, nhưng khác với "Gió thì thầm", ở "Trăng núi", Lã Thị Thông không chỉ mô tả quê núi bằng những hình ảnh chân mộc mà đôi khi thông qua những ảo giác, chị đã tạo ra cho độc giả một cái nhìn về miền núi trong một vẻ đẹp lung linh, huyền cảm. Ví như: "Say nghiêng chợ phiên" (Quả còn theo em lên nương), "môi nhuộm hoa chuối đỏ" (Chị tôi quê núi), "Hoa tam giác mạch mang hồn đá" (Lên bản Tèn), "Câu nàng ới rót vào hồn núi" (Trăng núi), "gió say mùi cơm lam" (Gió núi), "Thương mẹ, thương cha cỏ bạc đầu" (Lối cỏ đường quê)…
![]() |
Về phương pháp, nhìn chung thơ Lã Thị Thông viết theo lối truyền thống, có cấu trúc tuyến tính, giãi bày theo lối thơ phương Đông. Trong tập có một số bài lục bát, còn đa phần là thơ tự do. Thơ tự do của chị thường vẫn đề cao vần điệu, nhưng cũng có những bài không quá lệ thuộc vào vần. Trong tình hình sáng tác thơ hôm nay, đó là điều bình thường mà nhiều nhà thơ trong cả nước nói chung và Thái Nguyên nói riêng rất hay ứng dụng. Trong tập "Trăng núi" người đọc đã bước đầu nhìn thấy sự cách tân của tác giả. Ngoài việc tác giả tạo ra cái nhìn mới về miền núi như đã nói ở trên, ta được gặp khá nhiều câu thơ mộc mạc, mang cách nói dân gian Tày, Nùng, nhưng đã được "hiện đại hóa":
Gửi suối dài ra biển
Lời yêu
Ấm như nắng tỏa
Lời nhớ
Trong như giọt sương mai
(Lời yêu)
Hoặc có những đoạn thơ làm ta liên tưởng đến cả ý, lời lẫn nhịp của một câu hát lượn:
Slương điếp pì noọng
Có câu then bay lượn trên trời
Có đàn tính bắc cầu qua suối
Có nhà sàn thơm khói cơm lam
(Slương điếp pì noọng)
Lã Thị Thông cũng thường thích sử dụng những hình ảnh "lệch chuẩn", những từ ngữ, hình ảnh gần gũi với hình ảnh thơ siêu thực làm tăng thêm vẻ ám gợi:
Mùa thổ cẩm
Dệt mùa trăng thao thức
Máng hình núi hình khe
Dệt vào xa lắc
Dải lưng chàm thắt chặt hồn ai
(Con gái Tày)
Hoặc:
Tháng năm
Nắng tròn hoa phượng
Áo mỏng tiếng ve
Ngẩn ngơ mắt lá
(Nắng chín tháng Năm)
Những kiểu viết như thế xuất hiện rải rác trong tập: "Câu thơ nào lạc giữa phố đông", "Thương em/ anh cõng làng lên núi", "Mẹ gùi nắng lên đồi", "Con ong uống chùm nắng ngọt/ Ta ngồi uống những ngày xưa","Khăn chàm đội lệch mùa sương", "Ánh trăng rừng lặn sâu trong kí ức", "Ngực em tỏa ánh trăng"… Đôi khi ta còn được gặp sự vận dụng khéo léo lối ẩn dụ học tập từ ca dao của tác giả:"Múc trăng em gánh đầy vai/Múc đêm làm giọt sương mai đợi mùa", hoặc có những câu thơ như được thoát thai từ chính dân gian của người dân tộc thiểu số:
Quả pao gói nhớ để nhà
Chân đi, hồn ngủ trong tà áo ai.
(Lời của Mỵ)
Cho dù những câu thơ như vậy chưa nhiều trong tập thơ, nhưng đó là những dấu ấn ban đầu, có tính mở đường cho một cây bút còn đang hoàn thiện chính mình.
Tôi muốn dùng một nhận xét của nhà phê bình - Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Đức Hạnh, một nhận xét có tính khái quát để thay lời kết cho bài viết nhỏ này: "Lã Thị Thông là một tác giả mới. Đây cũng là một trong những tập thơ đầu tay của chị. Còn ít nhiều vụng về; đôi chỗ kể lể giãi bày. Nhưng nhìn dấu chân đầu tiên có thể đoán trước một hành trình. Nghe hát nửa câu đánh giá được một giọng hát ở tầm vóc nào. Vì thế tập thơ "Trăng núi" cho ta biết về dấu chân đầu tiên nhiều hứa hẹn về những ngân rung đầu tiên thấp thoáng nội lực văn hóa Tày, một giọng điệu lạ ngay khi mới xuất hiện. Hy vọng và chờ đợi những bước đi tiếp theo của gương mặt thơ Tày trẻ trung, nhiều đam mê và nhiều hứa hẹn này".










Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin