Nông Minh Châu là một nhà văn, nhà thơ Tày có vị trí quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của bộ phận văn học dân tộc thiểu số (DTTS) Việt Nam hiện đại, đặc biệt ở giai đoạn 40 năm cuối thế kỷ XX. Để ghi nhận và khẳng định những đóng góp đầy ý nghĩa của ông, quê hương Bắc Kạn - đã tổ chức Hội thảo khoa học có quy mô khá lớn về thân thế và sự nghiệp nhà văn Nông Minh Châu (năm 2024). Với nhiều bài viết, bài nghiên cứu nghiêm túc, tâm huyết và tràn đầy tình cảm mến yêu, trân trọng của các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu, phê bình văn học, nhà quản lý văn hóa, các nhà lãnh đạo chính quyền (địa phương Bắc Kạn) về ông. Tại Hội thảo khoa học này - “viên ngọc Minh Châu” - được “lộ diện một cách toàn vẹn” và tỏa sáng lấp lánh.
Trong bài viết này, chúng tôi muốn làm rõ hơn và khẳng định vai trò, vị trí quan trọng của ông trong văn học các DTTS Việt Nam.
![]() |
Với tác phẩm: “Ché Mèn được đi họp” (năm 1958), Nông Minh Châu thực sự đã là người đầu tiên đặt “viên gạch” xây dựng “ngôi nhà văn xuôi” DTTS trong đời sống văn học Việt Nam hiện đại. Từ “viên gạch” đầu tiên ấy, đã có tác dụng làm khơi dậy những tiềm năng sáng tác của các nhà văn DTTS khác đương thời (như: Triều Ân, Hoàng Hạc, Lâm Ngọc Thụ, Vương Trung, Vi Thị Kim Bình…). Vì thế, vào những năm 60 đã xuất hiện một loạt truyện ngắn của các nhà văn DTTS thuộc thế hệ đầu tiên (như đã nêu trên), tạo thành một mảng văn xuôi đậm sắc màu dân tộc và miền núi trong đời sống văn học nước nhà thời kỳ ấy.
Đến năm 1964, nhà văn Nông Minh Châu đã cho ra đời cuốn tiểu thuyết đầu tiên (do tác giả là người DTTS viết) - cuốn “Muối lên rừng” (Nhà xuất bản Văn học - 1964). Đây là cuốn tiểu thuyết hoàn toàn viết về cuộc sống, con người miền núi do chính người DTTS miền núi viết. Vì thế, từ cốt truyện đến các tình huống truyện, đến các chi tiết truyện; từ hệ thống nhân vật trong truyện đến ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ người kể chuyện, đến giọng điệu nghệ thuật… đều đậm đặc chất dân tộc và miền núi.
Với cuốn tiểu thuyết “Muối lên rừng” - nhà văn Nông Minh Châu đã tạo nên một dấu mốc quan trọng, đánh dấu sự phát triển mới ở thể loại của văn xuôi DTTS: hoàn thiện hơn, có quy mô và tầm cỡ. Sự ra đời của cuốn tiểu thuyết “chững chạc” này đã trở thành một động lực thúc đẩy các nhà văn DTTS thời kỳ đó thể nghiệm ngòi bút của mình ở một thể loại mới - đòi hỏi phải có nhiều sự nỗ lực, cố gắng; có vốn sống phong phú về con người, về đời sống, về hiện thực xã hội miền núi…; và đặc biệt là phải có “tay nghề” cao trong quá trình sáng tác, sáng tạo của mình.
Sau hơn 10 năm - kể từ khi cuốn tiểu thuyết “Muối lên rừng” ra đời, đời sống văn học DTTS của nước ta đã xuất hiện một đội ngũ các nhà văn viết tiểu thuyết -mang đậm bản sắc văn hóa các tộc người DTTS thuộc nhiều vùng, miền khác nhau cùng với những cái tên đã trở nên quen thuộc như: Vi Hồng, Triều Ân, Vương Trung, Y Điêng, Kim Nhất, Địch Ngọc Lân,…; và sau này là: Cao Duy Sơn, Hà Lâm Kỳ, Hà Thị Cẩm Anh, Hoàng Hữu Sang, Trường Thanh, Hoàng Thế Sinh, Đoàn Hữu Nam, Hoàng Quảng Uyên, Đức Tiến, Đoàn Ngọc Minh, Bùi Thị Như Lan,…
Đến nay, “Ngôi nhà văn xuôi” DTTS Việt Nam đã trở nên bề thế, khang trang, với “kiến trúc” độc đáo, đậm đà bản sắc dân tộc và miền núi đã thu hút hàng vạn người đến “tham quan”, tìm hiểu và đã yêu thích, đã đam mê một cách chân tình. Để có được “ngôi nhà” đẹp, độc đáo, đặc sắc này - chúng ta không bao giờ quên người đã đặt “viên gạch” đầu tiên để xây nên nó. Đó là nhà văn Nông Minh Châu - tác giả cuốn tiểu thuyết DTTS đầu tiên: “Muối lên rừng”!
Ở thể loại thơ: tuy không phải là nhà thơ DTTS đầu tiên có thơ in, đăng trên báo chí, nhưng thơ của Nông Minh Châu cũng đã xuất hiện vào những năm 40, 50 của thế kỷ XX. Chủ yếu thơ của ông được viết bằng tiếng Tày và phục vụ cho nhu cầu tuyên truyền cách mạng đối với đồng bào dân tộc, miền núi. Nhưng đến những năm 60, thơ của Nông Minh Châu xuất hiện nhiều hơn và đã để lại trong lòng độc giả (vùng dân tộc, miền núi) những tình cảm mến yêu, trân trọng - bởi vẻ đẹp trong sáng, hồn nhiên và giầu bản sắc dân tộc, luôn thấm đẫm tình yêu, lòng tự hào về vẻ đẹp của quê hương, của con người miền núi.
Đặc biệt, năm 1967, Nông Minh Châu đã “lập nên một kỷ lục” mới trong dòng chảy thơ ca DTTS Việt Nam với tác phẩm thơ Trường thiên (Trường ca): “Cưa khửn đông” - dài 4.408 câu bằng tiếng Tày. Đây là Truyện thơ DTTS có số lượng câu thơ nhiều nhất và được đánh giá rất cao bởi bản sắc văn hóa dân tộc (Tày) rất đậm đà, cốt truyện thơ hay, đặc sắc, xúc động lòng người.
Truyện thơ được viết bằng tiếng Tày và viết theo lối thơ truyền thống của dân tộc Tày. Vì thế bản sắc dân tộc (Tày) thấm đẫm trong từng câu thơ, từng hình ảnh thơ, ngôn ngữ thơ và giọng điệu thơ. Người Tày ở quê hương ông đã gìn giữ, đã chép tay lại từng đoạn bản “trường ca” này để ngâm theo điệu phong slư những khi sinh hoạt văn hóa cộng đồng.
Có thể thấy, với cuốn thơ Trường thiên, Nông Minh Châu đã ghi dấu ấn sâu sắc và đã đóng góp quan trọng vào việc: khẳng định sức sáng tạo, sức sống mãnh liệt của thể loại thơ Trường thiên trong đời sống văn hóa, văn học của cộng đồng các DTTS Việt Nam thời kỳ hiện đại. Sau Nông Minh Châu, nhiều nhà thơ DTTS cũng đã phát huy thế mạnh của thể loại này trong đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng dân tộc của mình (như các cuốn truyện thơ Trường thiên của: Vương Anh, Vương Trung, Cầm Hùng, Ka Sơ Liêng…).
Ngoài những đóng góp đáng ghi nhận, đáng trân trọng trong lĩnh vực sáng tác (văn xuôi và thơ), tác giả Nông Minh Châu còn là một nhà nghiên cứu, sưu tầm, giới thiệu vốn văn hóa, văn học truyền thống với một sự nhiệt thành, đam mê đặc biệt. Trong thời gian ông làm Trưởng phòng Nghiệp vụ Sở Văn hóa Khu tự trị Việt Bắc và Phó Giám đốc Nhà xuất bản Dân tộc Việt Bắc, ông đã dành nhiều thời gian và công sức cùng các đồng nghiệp của mình nghiên cứu, sưu tầm, giới thiệu vốn văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trong vùng Việt Bắc, đặc biệt là những nghiên cứu về các truyện thơ dân gian dân tộc Tày - Nùng (như các bài viết nghiên cứu về Truyện thơ Đính Quân, Truyện thơ dân gian “Khảm Hải”…); về vốn thành ngữ, tục ngữ; về các làn điệu Then… của người Tày - Nùng Việt Bắc.
Cũng chính từ công việc nghiên cứu, sưu tầm vốn cổ văn hóa, văn học này - mà nhà văn Nông Minh Châu đã trở thành một người rất “giàu có” về vốn văn hóa, vốn sống (lời ăn tiếng nói, lối ứng xử, cách suy nghĩ, cách tư duy, cách diễn đạt… của người DTTS vùng cao) - nên những trang văn, những bài thơ của ông luôn thấm đẫm chất dân tộc và miền núi, rất chân thực nhưng cũng rất lãng mạn, phóng khoáng, rất “tự nhiên nhi nhiên”, dễ đi vào lòng người.
Ở lĩnh vực nghiên cứu, sưu tầm, giới thiệu vốn văn học và vốn văn hóa, văn nghệ dân gian truyền thống: với ý thức gìn giữ, bảo tồn và phát huy các giá trị to lớn của văn hóa, văn nghệ dân gian trong đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng các DTTS thời kỳ hiện đại - tác giả Nông Minh Châu cũng đã rất xứng đáng được ghi nhận như là một nhà nghiên cứu, phê bình văn học DTTS Việt Nam trong giai đoạn đầu tiên hình thành thể loại này.
![]() |
| Ba người con của nhà văn Nông Minh Châu tại Tọa đàm kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Nông Minh Châu (9/1/1924-9/1/2024). |
Những nội dung nêu trên đã khẳng định vị trí, vai trò và những đóng góp quan trọng của nhà văn Tày - Nông Minh Châu đối với quá trình hình thành và phát triển của văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Ông xứng đáng được tôn vinh, được ghi nhận như là một “bậc tiền bối” đáng kính trọng của văn học DTTS Việt Nam.
Nhà văn dân tộc Tày, Nông Minh Châu, tên khai sinh là Nông Công Thỉ. Ông sinh ngày 9/1/2024 trong một gia đình nông dân ở bản Cò Luồng, xã Thượng Quan, huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn (nay là xã Thượng Quan, tỉnh Thái Nguyên).
Từ nhỏ, ông đã được nuôi dưỡng trong nguồn văn hóa dân gian đặc sắc của dân tộc Tày. Những câu sli, câu lượn đã thấm vào tâm hồn, lưu chảy trong huyết quản một cách tự nhiên. Nguồn cội bản sắc văn hóa đã ảnh hưởng trực tiếp đến sáng tác của ông. Ông đã cảm nhận quê hương miền núi bằng những nét riêng biệt hòa với cuộc sống của dân tộc Tày. Tác phẩm của ông thấm đẫm văn hóa Tày mà chủ đề chính là thiên nhiên tươi đẹp, cuộc sống sinh hoạt, con người vùng cao giàu bản sắc…
Là một thanh niên sớm có lòng yêu nước và tham gia vào đoàn thể Việt Minh từ tháng 9-1943. Từ đó cuộc đời của ông gắn với hoạt động cách mạng, kinh qua nhiều chức vụ trong sự nghiệp công tác, đặc biệt ông là người có nhiều đóng góp trong sáng tác văn học. Ông từng làm Bí thư Tỉnh đoàn Thanh niên Bắc Kạn, rồi Trưởng ty Văn hóa Bắc Kạn. Từ tháng 10-1957, ông là cán bộ phụ trách văn hóa, văn nghệ của Khu tự trị Việt Bắc, Phó Chủ nhiệm Nhà xuất bản Việt Bắc (tiền thân của NXB Văn hóa dân tộc). Ông là người cá tính, tính thẳng thắn, sống hết lòng với mọi người, nhất là tình yêu với trẻ nhỏ…
Nhà văn Nông Minh Châu rời cõi tạm năm 55 tuổi (4/3/1979), nhưng đã để lại một sự nghiệp văn học có giá trị, gồm truyện ngắn, tiểu thuyết, bút ký, thơ, trường ca. Tác phẩm tiêu biểu của ông phải kể đến: Truyện ngắn đầu tay tiếng Tày Ché Mèn đảy pay họp (Ché Mèn được đi họp, 1958); tập thơ Tung còn và suối đàn (in chung Triều Ân, 1963); Muối lên rừng (tiểu thuyết, 1964); Cưa khửn đông (truyện thơ trường thiên tiếng Tày, 1967); Tiếng chim gô (truyện ký, 1979); Chuyện anh Thượng, Mẹ con chị Nải, Trận địa giữa ruộng bậc thang; Tuyển tập Nông Minh Châu (2003), Thơ Nông Minh Châu tuyển chọn (2005).
Ông là người có công trong đặt nền móng văn học hiện đại, Cách mạng của tỉnh Thái Nguyên cũng như các dân tộc thiểu số Việt Nam
Nông Minh Châu
Tung Còn
Trong nôi trúc bé cười cùng mũ mới
Áo trên sàn sánh hoa mận trong vườn
Tua còn đỏ liệng chen đàn én nhạn
Yến đá cao, giọng lượn còn bổng hơn.
Hai năm rồi núi rừng thêm cánh nhạn
Hôm nay trên đám ruộng thơm rạ xuân
Ta tung còn tung cả cánh hồng
Tung, đón lấy mùa xuân dân tộc.









Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin