So với các ngành văn học nghệ thuật khác ở trong nước, nhiếp ảnh Việt Nam là một chuyên ngành rất trẻ. Nhìn sang người “anh em” gần gũi là mỹ thuật Việt Nam, nếu lấy dấu tích những hình khắc trên vách đá ở hang Đồng Nội (Lạc Thủy, Hòa Bình, nay thuộc tỉnh Phú Thọ) làm mốc khởi đầu, thì mỹ thuật Việt đã có lịch sử phát triển khoảng một vạn năm. Trong khi đó, nhiếp ảnh Việt Nam được ông Đặng Huy Trứ đưa về nước năm 1869, tức là đến nay mới chỉ có tuổi đời hơn 150 năm.
Nhờ có sức trẻ, nên nhiếp ảnh là loại hình nghệ thuật năng động, mỗi biến chuyển của môi trường xã hội đều có thể trở thành cơ duyên để thúc đẩy cho những góc nhìn khám phá. Trong bối cảnh toàn dân tộc đang gấp rút (trực tiếp và gián tiếp) tham gia vào công cuộc “Sắp xếp lại giang sơn”, câu hỏi mà giới cầm máy hiện đang trăn trở: Nhiếp ảnh Việt Nam rồi sẽ cập tới bến bờ nào trong dòng chảy văn hóa dân tộc, và vị thế nằm ở đâu trên bản đồ nhiếp ảnh thế giới?
Thực trạng và một số tồn đọng trong hoạt động nhiếp ảnh Việt Nam hiện nay
Những năm gần đây, hoạt động nhiếp ảnh trong nước chứng kiến một bầu không khí sôi động chưa từng có. Ở khắp các tỉnh, thành, các câu lạc bộ, hội nhóm nhiếp ảnh mọc lên như nấm, với cả ngàn người mang thẻ hội viên Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam, hàng trăm nghệ sĩ được phong tặng danh hiệu, tước hiệu ở nhiều cấp độ khác nhau.
Bề ngoài, đó là dấu hiệu của một đời sống nghệ thuật phong phú; song nhìn sâu vào bản chất, bức tranh nhiếp ảnh ở nước ta vẫn còn tiềm ẩn không ít mối lo ngại mà người ta chỉ mới cảm thấu được, chứ chưa gọi ra thành tên.
![]() |
| Nắng thu. Ảnh: Vũ Kim Khoa |
Đặc thù của nghệ thuật nhiếp ảnh là sự hòa trộn, nó vừa mang tính khoa học, vừa có tính sáng tạo. Mỗi bức ảnh là kết quả của sự giao thoa giữa X% kỹ thuật và Y% nghệ thuật, hai yếu tố này gắn kết không thể tách rời.
Tuy nhiên, trong thực tế, nhờ sự phát triển của khoa học và công nghệ, cùng những nỗ lực cải tiến nhằm để đơn giản hóa các thiết bị chụp hình, mảng hậu kì lại được hỗ trợ bởi những phần mềm xử lý hiện đại, đã khiến nhiều người lầm tưởng rằng chỉ cần thiết bị tốt là có thể tạo ra tác phẩm ảnh nghệ thuật.
Cách tiếp nhận khoa học kỹ thuật không bài bản, chắp vá, đi sáng tác thì nhiễm thành nếp cái thói quen “lội nước đi sau”; “a dua” của đại đa số các tay máy, đã dẫn đến thành tựu nhiếp ảnh của người Việt (nếu xét trong một khoảng thời gian hẹp), thì thấy thiếu tính đột phá, lại tự ru ngủ bản thân qua những lời khen, thỏa mãn với những thành quả của ngày hôm trước, thiếu hẳn một nền tảng lý luận phê bình và tự phê bình, khiến cho không ít người thực hành sa đà vào những “gợi ý” từ những sản phẩm của bạn nghề đi trước, không thoát khỏi lối mòn, tư duy thẩm mỹ bị thui chột, kết quả đã đẩy cảm xúc tự rời xa tác phẩm.
Hội NSNA Việt Nam đã tổ chức hàng chục cuộc hội thảo, mở nhiều trại bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ giám khảo. Song phần lớn những người đã kinh qua đào tạo lại không được sử dụng đúng nơi, đúng lúc, thậm chí bị bỏ quên, dẫn đến lãng phí nhân lực và trí lực. Bên cạnh đó, việc tổ chức hàng trăm cuộc thi ảnh mỗi năm từ địa phương đến trung ương, vô hình trung đã biến kết quả “thi ảnh” thành thước đo mặc định cho giá trị nghệ thuật của một tác phẩm.
Nhờ thành tích thi ảnh mà có hội viên, nhờ thi ảnh nên hội viên có tước hiệu, danh hiệu… Nếu cơ chế thi cử tiếp tục được duy trì, sẽ biến cả đội ngũ thành một khối người miệt mài chạy đua tìm kiếm huy chương. Thực tế những giá trị vật chất (của giải thưởng và nhuận ảnh) chưa bao giờ đủ bù đắp cho việc mua sắm thiết bị cùng những chi phí cho các cuộc đi săn ảnh. Nhiếp ảnh Việt Nam sẽ rơi vào tình trạng lão hóa sớm, khi sáng tạo bị bó hẹp trong mục tiêu đoạt thành tích và các loại danh xưng nhằm đánh bóng tên tuổi cá nhân, nhưng lại quên tôn vinh nghề trọng.
Đã đến lúc cần phải có một cái nhìn khái quát mới, coi nhiếp ảnh không chỉ là cuộc chơi của kỹ thuật hay danh hiệu, mà là hành trình đi tìm kiếm cái đẹp, phản ánh đời sống thực và những buồn vui làm lay động tâm can con người. Chỉ khi chính người nghệ sĩ thực sự nhìn thấy được giá trị nhân văn toát ra từ công sức, trí tuệ và cảm xúc cô đọng trong quá trình sáng tạo, thấy hạnh phúc đong đầy khi tiếng nói từ tác phẩm tràn lấp lên cái tôi của cá nhân, thì nhiếp ảnh Việt Nam mới có thể vượt ra khỏi “hội chứng phong tước” để vươn tới tầm vóc nghệ sĩ đích thực.
Hậu quả khi nhiếp ảnh bị phủ bóng bởi sự dễ dãi và giả tạo
Thật đáng buồn khi nhiếp ảnh vốn được xem là tiếng nói của cái nhìn thẳng diện và trung thực, thì nay lại đang dần trở thành mảnh đất đầy rẫy những vết nứt của đạo ảnh, đạo ý tưởng. Nhiều người sẵn sàng sao chép bố cục, ý tưởng, thậm chí cả hướng sáng và cảm xúc của người khác, rồi thản nhiên gắn tên mình dưới mỗi bức ảnh. Sự tự trọng nghề nghiệp dường như không còn quan trọng, tệ hơn là ở trong giới nghệ sĩ Nhiếp ảnh hình như ai cũng biết nhưng rất ít người đủ dũng khí để chỉ ra những sai trái đó.
![]() |
| Khẽ khàng xuân. Ảnh: Vũ Kim Khoa |
Không chỉ ở cá nhân, mà hệ thống tổ chức cũng có nhiều vấn đề đáng bàn. Đã có nhiều cuộc thi ảnh gần đây phải hủy giải thưởng. Là lỗi của người dự thi? hay lỗi của giám khảo? Ban Tổ chức các cuộc thi phải chịu trách nhiệm. Dù điều gì cũng không thể tiếp tục ngụy biện đó chỉ là “sự cố”. Lần một người ta bảo do sơ suất, lần hai có thể bị quy là cẩu thả, nhưng từ lần ba trở lên, thì người ta nghĩ hệ thống đó đã bị trục trặc...
Nếu chính những người “cầm cân nảy mực” cũng bị lung lay về chuyên môn, nếu những người tổ chức thiếu tỉnh táo và quyền lực để điều hành hệ thống, thì niềm tin những người yêu nhiếp ảnh sẽ đi về đâu.
Các nhà nhiếp ảnh mang danh hiệu cao ở trong nước và quốc tế, lẽ ra là những tấm gương dẫn dắt phong trào, nhưng hình như họ lại quá đơn độc, hoặc vì một nguyên cớ nào đó nên chọn im lặng. Không ít người có tài nhưng đã không mặn mà cống hiến. Một hoạt động nghệ thuật đuối về nền tảng lý luận và học thuật và khi sự trì trệ được phủ bên ngoài bằng chiếc áo kinh nghiệm đã vá víu chằng đụp; khi truyền thống cứ ảo mờ giữa thực và hư…, thì khiến các nghệ sĩ nhiếp ảnh không có hướng đi hoặc quẩn quanh trong tụt hậu bởi cái nhìn đã bị nút kín.
Loại hình nhiếp ảnh không thể phát triển nếu thiếu sự minh bạch, công bằng và dũng khí đổi mới. Những con người xuất sắc, những cá nhân sáng tạo, có năng lực và tình yêu nghề thực thụ, nếu không làm gì đó để truyền cảm hứng cho bản thân và bạn nghề… thì chính họ cũng phải chịu một phần trách nhiệm, khi không chung tay xây dựng phát triển một loại hình nghệ thuật mà bản thân họ từng yêu mến, gắn bó.
Nếu giới nhiếp ảnh không dám nhìn thẳng vào sự thật, không dám dọn dẹp bản thân và ngôi nhà của mình, thì việc sống trong ô nhiễm và bệnh tật là không tránh khỏi. Nghệ thuật không thể tồn tại trên nền tảng của sự gian dối. Và khi ánh sáng “linh hồn của nhiếp ảnh”, bị thu hẹp bởi bóng tối và những điều viển vông khác, thì dù máy ảnh cùng công nghệ có hiện đại đến đâu, sản phẩm cuối cũng vẫn mãi chỉ là những tấm hình vô cảm.
Một số ý kiến đề xuất
Trong quá trình tái cấu trúc hệ thống tổ chức ở cấp địa phương, khi số lượng đầu mối từ 52 tỉnh, thành giảm xuống còn 32, những xáo trộn về nhân sự và hình thái hoạt động là điều không thể tránh khỏi. Các tổ chức nhiếp ảnh cũng nằm trong dòng chuyển động đó: bị sáp nhập gọn lại, gom về những đầu mối ít hơn trước.
Tuy nhiên, điều này sẽ đặt ra một thách thức lớn: bản chất của hoạt động nhiếp ảnh vốn mang tính tự phát, đơn lẻ và giàu bản sắc cá nhân. Một bức ảnh có thể là tiếng nói của một nghệ sĩ, nhưng lại mang tính đại diện cho một dòng ảnh, một trường phái. Khi nhiều nghệ sĩ với phong cách không giống nhau được đặt chung trong cùng một tập thể, sự đa dạng xuất phát từ phương pháp sáng tạo có tính đặc thù và chuyên biệt giữa họ với nhau sẽ rất khó tìm ra được một tiếng nói chung, rất dễ dẫn đến tình trạng chồng chéo, hỗn loạn, thiếu ổn định và xung khắc trong hoạt động sáng tác. Người Việt vẫn hay nói: “Cán bộ nào, phong trào ấy”, một chi hội trưởng Nhiếp ảnh chụp với phong cách báo chí, sẽ khó "ưu tiên" cho những hội viên thích chơi ảnh ghép, ảnh sáng tạo từ những phương pháp khác…
Chỉ khi đi sâu vào nhiếp ảnh, người ta mới thấy loại hình này rất rộng lớn. Thực tế một người khó có thể theo được hết tất cả các thể loại nhiếp ảnh khác nhau. Và thành công thường đến với những nghệ sĩ biết chọn hướng đi đúng cho mình. Ví dụ: Nhà nhiếp ảnh người Brazil Sebastiao Salgado (sinh năm 1944) đã chọn phương pháp tả thực cho sự nghiệp nhiếp ảnh của mình, ông nổi tiếng thế giới với những tác phẩm ảnh chụp người lao động, người di cư với đầy tính sử thi và đậm chất nhân văn. Còn các nhà nhiếp ảnh như Ansel Addam (người Mỹ, 1902 -– 1984); Frans Lanting (người Hà Lan, sinh 1951); hayArt Wolfe (người Mỹ, sinh 1951) đã chọn trường phái ảnh Thiên nhiên hoang dã. Họ đã góp công sức rất lớn, khi đưa nhiếp ảnh từ tư liệu lên tầm nghệ thuật và dấy lên phong trào đấu tranh để bảo vệ môi trường toàn cầu.
Lịch sử nhiếp ảnh Việt Nam cũng đã cho thấy, mỗi người nghệ sĩ đều có một vùng sáng tạo riêng: liệt sĩ Lương Nghĩa Dũng, nghệ sĩ Đoàn Công Tính được coi trọng bởi là những phóng viên chiến trường dũng cảm; những cố nghệ sĩ Hoàng Nẫm, Phạm Văn Mùi lại ghi dấu ấn sâu đậm với ảnh đời thường… Sự sáng tạo, dù mạnh mẽ đến đâu, cũng luôn được định hình bởi lòng đam mê, hoàn cảnh và cơ duyên của mỗi người.
Trong bối cảnh mới, khi Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định “Đất nước chính là quê hương”, các nhà nhiếp ảnh cũng đã thấy rõ hơn vai trò kết nối của công nghệ và giao thông hiện đại. Giờ đây, ranh giới địa lý không còn là rào cản. Các nghệ sĩ, dù ở bất cứ đâu trên trên đất Việt, đều có thể dễ dàng trao đổi, chia sẻ và cộng tác với nhau. Đây chính là cơ hội để Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam mạnh dạn đổi mới trong tổ chức hoạt động.
Thay vì tiếp tục duy trì mô hình chi hội theo địa phương, Hội có thể nghiên cứu xây dựng mô hình tuyến tính theo chuyên đề sáng tác. Cụ thể, có thể thành lập các chi hội chuyên sâu như: Chi hội Ảnh Đường phố, Chi hội Ảnh Du lịch, Chi hội Ảnh Kiến trúc, Chi hội Ảnh ý tưởng Nghệ thuật, Chi hội Ảnh Tư liệu Lịch sử… Hội viên của một chi hội có thể lên đến hàng trăm và trải dài từ mũi cột cờ Lũng Cú đến mũi Cà Mau. Mô hình này hướng đến chiều sâu thay vì trải rộng, giúp các thành viên dễ dàng tìm thấy tiếng nói chung, chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ nhau trong sáng tạo và tiết kiệm nguồn lực.
![]() |
| Trở về. Ảnh: Vũ Kim Khoa |
Trong các chi hội chuyên đề, các nghệ sĩ có thể được tự xây dựng quy chế hoạt động, định nghĩa ra quy tắc của chuyên nghề, bầu ban quản trị và tự điều hành, tạo nên môi trường linh hoạt và dân chủ hơn. Vai trò của Hội Trung ương khi đó sẽ là trao quyền cởi nút thay vì buộc chặt. Các giá trị nghệ thuật nên được đánh giá từ dưới lên, xuất phát từ thực tiễn sáng tác của hội viên, thay vì áp từ trên xuống. Thành quả sáng tạo của nghệ sĩ cần được xem là thước đo giá trị thực chất, thay cho những tiêu chí, hình thức.
Bên cạnh đó, Hội Trung ương nên tận dụng năng lực của những hội viên xuất sắc trong từng chi hội chuyên đề, mời họ vào nhóm chuyên gia tư vấn, cố vấn nghệ thuật cho hoạt động của Hội. Đây không chỉ là cách ghi nhận tài năng mà còn là cơ chế lan tỏa tri thức, định hướng cho hoạt động có chiều sâu và lâu dài.
Một điểm đáng lưu ý khác là việc tổ chức các cuộc thi nhiếp ảnh. Thực tiễn cho thấy, các cuộc thi tự do dễ gây tranh cãi và tạo cảm giác bất công giữa những thể loại khác nhau. Do đó, nên mạnh dạn loại bỏ hình thức thi tự do, thay vào đó là các cuộc thi chuyên đề, nơi mỗi tác phẩm được so sánh, đánh giá trong cùng một hệ quy chiếu nghệ thuật. Đây chính là cách công bằng và tôn trọng nhất đối với sự đa dạng trong sáng tạo của nhiếp ảnh.
Việc đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động theo hướng chuyên sâu; trao quyền cho cơ sở, đánh giá công bằng và lấy giá trị nghệ thuật làm trung tâm sẽ là hướng đi phù hợp cho Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đó cũng là con đường giúp nhiếp ảnh Việt Nam phát huy bản sắc riêng, hội nhập hiệu quả và vững bước trong thời đại mới.










Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin