Cõi người ta

Chí Cường 13:18, 01/11/2025

“Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau”

Bên ấm trà, nhẩn nha thưởng ẩm, lẩy Kiều Nguyễn Du, đời được như thế, khác nào đang sống ở chốn bồng lai tiên cảnh.

Cái cõi bồng lai tiên cảnh ấy chẳng ở đâu xa, mà ở ngay trước mặt, có điều ta chưa nhận ra. Đó là một quán cóc bên đường, trong khách sạn nhiều sao hoặc ở một bãi cỏ chỗ ta đang ngồi đối ẩm, nói chuyện nhân duyên.

Bên bàn trà, câu chuyện của những người lính như không có đoạn kết.
Bên bàn trà, câu chuyện của những người lính như không có đoạn kết.

Đời người ta sinh ra, ai lo phận nấy, nhưng đều có nhân duyên cả. Có người được nhân duyên về tước vị xã hội, người được nhân duyên về ái tình, còn như tôi được lộc la cà trà nước.

Kể cũng thú, lúc trản trà, đối ẩm, ai cũng cho mình là “chính danh quân tử”. Nhất là lúc trời đất luân chuyển, vũ trụ xoay vần, người ta bàn về giá lạnh của mùa đông, se se lạnh của mùa thu, về cái nắng cháy da, đỏ tóc của mùa hè, và về tia nắng ấm áp của mùa xuân. Cả những chuyện trên trời dưới biển, xa tít tận năm châu, bốn bể, cả trên vũ trụ mênh mông. Chuyện xưa, chuyện nay đong đầy trong chén trà, đọng lại thành cái vị chát, đến khi quen lại thấy ngon, ngọt và hết sức thú vị, thế mới là xã hội.

Từng được uống trà trong khách sạn nhiều sao ở Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và ở một số nước bạn làng giềng, tôi nghiệm ra một điều về cái cách uống trà ở những nơi phòng treo đèn chùm, có máy điều hoà, nhạc rền cho người hú hát, lại thêm mấy cô gái mặc áo váy thiếu vải, lắm người bảo đó là chốn sang trọng, trả tiền đồ uống bằng đô la, nhưng tôi thấy cũng chỉ là cách uống cho no bụng.

Người vùng chè hiếu khách
Người vùng chè hiếu khách

Một vài người bạn thành đạt đưa tôi về thăm nhà, ngồi trà chén với nhau bên bộ bàn ghế bạc tỉ, vậy mà cái chất phong lưu trong chén trà nhàn nhạt, mới kéo nhau ra bộ bàn ghế kê khiêm tốn nơi góc vườn, pha lại ấm trà, nhấp từng ngụm nhỏ, thấy cỏ, hoa như có hồn. Thế mới hay lời tiền nhân dạy: “Nhất thủy, nhì trà, tam pha, tứ ấm, ngũ quần anh” luôn đúng với những “đồ đệ” của trà.

Ngồi thưởng ẩm ở Không gian văn hoá Trà sẽ là một thứ hạnh phúc đối với người sành chè. Bởi ở đó loại chè ngon thượng hạng được những “yểu điệu thục nữ” quạt than đun nước, pha trà, chuyên trà ra chén. Ngồi bên bộ bàn ghế làm bằng tre, trúc lạ mắt, nhìn sóng sánh xanh với từng sợi khói trắng như ôm chầm lấy nhau, rồi hờ buông vương rơi ngược vào khoảng không mơ hồ nơi đỉnh chén đã thấy mãn nhãn. Lại chợt nghe từ đâu đó trong Không gian văn hoá Trà, một khúc đàn tính cùng lời Then cất lên dìu hồn ta về miền ký ức. Trong chén trà gói ghém bao những lo toan đời người, những nắng cháy, mưa nguồn xối xả và cả một dòng chảy lịch sử của vùng đất Thủ đô gió ngàn đều đọng lại, ngưng tụ thành hương vị đặc biệt chỉ trà Thái Nguyên mới có.

Trên dãy núi Tam Đảo, vùng đất thuộc địa phận Thái Nguyên hiện còn có những cây chè gốc to ba, bốn người ôm chưa hết vòng cây. Có cây chè trên núi ra lá, búp màu xanh lục; có cây ra lá, búp màu tím đỏ, cả 2 loại chè này đều được người dân địa phương hái về nấu nước uống.

Nhưng làm nên thương hiệu chè Thái Nguyên lại không phải những cây chè cổ thụ hàng trăm năm tuổi, mà từ ở bàn tay người nông dân tảo tần.

Chuyện rằng: Năm 1935, ông Đội Năm, vị tiên chỉ của làng Tân Cương đã cùng với một số nông dân băng đèo, vượt suối, bất chấp beo hùm, sang đất Phú Thọ lấy hạt chè giống về trồng. Chỉ sau ít năm, ông Đội Năm và nông dân Tân Cương làm ra chè cánh hạc, mang bán cho người sành trà Hà Nội, Hải Phòng, rồi mang sang thủ đô Pa Ri (Pháp) làm quà biếu.

Mới đó đã gần trăm năm, người trong nước và người nhiều nước trên thế giới biết đến Thái Nguyên bởi hương vị của trà. Nhân đây, trở lại với đời sống nhân sinh, có 2 thứ phẩm vật quý hơn bạc vàng, đó là gạo và chè. Cả 2 phẩm vật này đều được các gia đình người Việt dâng lên ban thờ ngày xuân, ngày giỗ chạp, đóng lễ dâng kính thánh, phật ở đền, chùa.

Cây chè đã gắn bó thân thiết với đời sống con người từ rất nhiều thế kỷ. Lá chè được các mẹ, các chị sắc lấy nước tắm chữa hăm lở cho trẻ sơ sinh. Khi dựng vợ, gả chồng cho con cháu, chè không thể thiếu trong sinh lễ, ấy là phong tục đẹp. Cả khi chết, nhiều đám còn cho hàng cân chè bồm lót xuống đáy áo quan, rồi mới khâm niệm người vắn số.

Đời sống thường nhật, chén trà là đầu câu chuyện, là sự khởi đầu cho những cuộc giao kèo, ước hẹn, là cái cớ để người ta gần gũi nhau hơn.

Vậy nên cả một dòng chảy lịch sử của vùng đất nửa đồng, nửa núi Thái Nguyên dường đọng lại trong chén trà sóng sánh.

Bởi ngay ở Không gian văn hoá Trà Tân Cương hiện lưu giữ những bộ ấm, chén, bình trà có niên đại hàng trăm năm tuổi, với đường nét hoa văn độc đáo, nhìn vào có thể biết được từ hàng trăm năm trước, các tiền bối đã coi việc uống trà là một nghệ thuật.

Du khách phiêu cùng nương chè.
Du khách phiêu cùng nương chè.

Từ cả trăm năm trước đây, các bậc tiền nhân của vùng chè đã biết sử dụng 5 loài hoa tao nhã, gồm: Nhài, sói, cúc, sen, ngâu làm hương ướp trà. Cùng năm tháng, con đường trà Thái hình thành, mang lại nguồn lợi nuôi sống người nông dân trồng chè.

Nhờ có sự đổi mới về tư duy quản lý đất nước, nhiều sản vật của nông dân trở nên có giá trị hơn, trong đó có cây chè. Sự đổi mới, cởi mở để cây chè thật sự trở thành hàng hoá, nuôi sống con người được kể từ năm 1990 trở lại đây. Từng đồi chè như người ngủ mơ thức dậy. Dân các làng chè hăng hái đầu tư, mở rộng diện tích trồng chè. Cái kỹ thuật sao chè bằng chảo gang cũng nhanh chóng được chuyển sang sao sấy chè bằng tấm tôn phẳng, vò chân. Rồi máy héo, máy vò chạy điện ra đời, người vùng chè được giải phóng sức lao động, một người có thể chế biến xong vài tạ chè khô trong ngày.

Bên bàn trà, nâng chén nóng bỏng, tay như sờ thấy nghĩ suy lòng người. Ví chuyện người uống chén trà loại tiền triệu một cân, cảm hoài người uống thứ trà bồm vài chục nghìn cả ký. Chẳng quan trọng gì, vì đã là trà Thái Nguyên chính hiệu, dù ngồi ở đâu, uống trà giá nào thì bác nông dân chân trần cũng như người áo gấm đều cảm nhận được thú vui của trà mang lại. Bởi ẩm trà là một thứ văn hoá cao siêu, nhưng cũng là một thứ văn hoá bình dân, hội tụ ở đó mọi đông, tây, kim, cổ.

Âu cũng là chuyện của cõi người ta, và của cõi lòng mình.