Năm 1940, từ vùng quê Pắc Lùng (xã Đức Xuân, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng) ông Lý Thanh (Lý Văn Sàng) về Đại Từ ở với gia đình khi mới 17 tuổi, được ông Đường Nhất Quý (một trong 4 đảng viên của cơ sở Đảng đầu tiên của tỉnh Thái Nguyên) kết nạp vào Hội Thanh niên phản đế và bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng từ đó.
Một mình chăm bà trên triền núi
Ông Lý Thanh sinh năm 1923, là người dân tộc Nùng (Nùng Cháo). Bản Pắc Lùng nơi ông sinh ra, là nơi mà “Núi đá và những cây nghiến là đặc trưng” - như ông viết trong cuốn Hồi kí “Những năm tháng đã qua”.
![]() |
| Ông Lý Thanh (thứ tư phải sang) cùng ông Nhị Quý (thứ hai trái sang) và các cán bộ, lão thành cách mạng đến thăm Đại tướng Võ Nguyên Giáp (đứng giữa) tại Hà Nội, năm 2000. (Ảnh tư liệu gia đình). |
Ở vùng quê nhiều núi đá, ít ruộng ấy, cuộc sống của người dân trong đó có gia đình ông rất khó khăn, chật vật. Bố ông ít khi ở nhà, thường đi phu. Lúc này dân phu chủ yếu làm đường, như ở đèo Bông Lau, đèo Cao Bắc và đường lên Bảo Lạc. Anh em cùng làm phu đường với ông thường kể đến một vùng quê ở Thái Nguyên, đó là vùng Đại Từ. Được biết là ngay từ xa xưa, khoảng thế kỷ thứ 16 đã có dòng họ Nông, người Nùng từ Cao Bằng xuống khai phá ở vùng đất Yên Lãng, Đại Từ. Sau này, dân gian có câu: “Pền lẻ pền cải, bấu pền lẻ khảm Thái puôn đâu” (Nên thì nên to, không nên thì sang Thái buôn nâu). Từ ấy, trong ý niệm của ông, vùng Đại Từ, Thái Nguyên như là một “miền đất hứa”. Sau khi 4 người em ông lần lượt ra đời thì chuyển vùng xuống Thái Nguyên càng là vấn đề cấp thiết.
Con đường duy nhất để đến “miền đất hứa” là xuống Thất Khê qua Văn Mịch, Bình Gia, Bắc Sơn, Võ Nhai rồi lên Phú Lương, rồi sang Đại Từ. Tất nhiên phải đi bộ, mất 8 đến 10 ngày, nhiều đoạn đường mòn, đèo dốc (dài nhất là đèo Khau Hương giữa Tràng Định và Văn Mịch, tới 30km), hay gặp hổ và cướp. Chuyển cả gia đình đi trong một thời gian khá dài như vậy, có thể nói là mạo hiểm.
Nhưng khó khăn nhất là bà nội ông Lý Thanh lúc này đã già yếu, lưng còng, chỉ ở nhà không thể đi đâu được. Năm 1934, bố mẹ ông Lý Thanh quyết định chuyển nhà xuống Đại Từ. Trải qua một cuộc hành trình khá thuận lợi, gia đình đã đến một địa điểm thuộc xã Phú Thịnh (Đại Từ). Sau khi xác định được nơi ở, bố mẹ cho ông trở lại Cao Bằng để chăm sóc bà nội, vì ông là con cả.
Trở lại Pắc Lùng, chỉ có hai bà cháu nuôi nhau, lúc này cậu thiếu niên Lý Thanh mới gần 12 tuổi, hằng ngày làm ruộng, làm nương, nuôi gà, nuôi lợn, hái củi. Khi được 14, 15 tuổi, ông còn đi cày thuê cho các nhà nhiều ruộng trong bản và các bản lân cận, rồi đi làm nương xa hơn, tới các vùng rừng già, đất màu mỡ hơn. Khi ấy, ở vùng rừng núi này thường có nhiều thú rừng, đặc biệt là lợn rừng, có đàn 20 đến 30 con, nếu đàn lợn ấy tràn vào nương ngô thì chỉ sau một đêm có thể bị tan hoang. Do vậy, khi bắp ngô đã xây hạt, ông phải làm lán ở lại nương để canh chừng thú rừng vào phá. Ông kể trong hồi kí: “Đêm đến rất buồn và rất sợ. Giữa một vùng rừng núi, đêm tối mênh mông hoang vắng, có hôm nghe tiếng hú của chó sói, tiếng khốc của con hoẵng và tiếng các loài chim, tiếng cú. Đặc biệt là tiếng của chim khảm khắc rất buồn,… Nghe tiếng chim kêu tôi rất nhớ mẹ, cha và các em. Nhưng cái lo nhất của tôi trong những đêm ngủ ở lán canh nương là lo về bà nội. Bà nội tôi ở nhà một mình không biết ăn uống thế nào, không có gạo, ngô, phải ăn củ chuối, làm được cái ăn cũng thật vất vả. Phải đào củ chuối hột về thái nhỏ, luộc chín, rồi ngâm nước khoảng 10 tiếng đồng hồ cho hết nhựa độc mới đem vào nồi nấu với một nắm gạo, chỉ một nắm thôi. Vì một bơ gạo phải chia ra thành bảy đến tám bữa. Nhớ bà, nhớ bố mẹ, nhiều đêm tôi đã ứa nước mắt”.
Sáng mồng 4 tháng Chạp năm 1940, ông đang cày thuê ở ngoài đồng thì một người em trong bản chạy đến bảo, bà đã mất rồi. Ông vội chạy về cùng họ hàng, làng bản lo hậu sự cho bà…
Lo tang ma cho bà xong, ông Lý Thanh bán đi mọi thứ có thể để lấy tiền trở lại Đại Từ, tất cả được 1,2 đồng, còn nhà cửa giao lại cho chú thím quản lý. Chú cho ông một bộ quần áo chàm kiểu Nùng đã sờn rách. Trải qua một hành trình đầy vất vả, hiểm nguy (ông suýt đi vào vùng Bắc Sơn, khi ấy đang có khởi nghĩa), nhưng nhờ sự giúp đỡ của những người dân trên dọc đường đi và cả sự may mắn nên cuối cùng ông cũng đến Phú Thịnh. Khi đến nơi, hỏi thăm về bố mẹ, họ cho biết gia đình ông đã chuyển lên Khuôn Muống, Yên Cư (nay là Yên Lãng). Thế là ông lại tìm về Khuôn Muống. Sau 6 năm xa cách, chàng trai Lý Thanh đã gặp lại bố mẹ cùng các em của mình với niềm vui khôn xiết.
Giác ngộ và tham gia cách mạng ở quê hương mới
Anh Lý Hùng Chiến người con trai thứ ba của ông Lý Thanh cho chúng tôi biết: Khuôn Muống khi xưa là vùng rừng rậm và có nhiều hổ dữ. Khoảng năm 1950, lúc người anh cả Lý Xuân Trường còn nhỏ, được mẹ đặt trên võng trong nhà, cạnh vách liếp, vậy mà bị một con hổ lao vào định vồ. Nó đẩy vách xô vào cái võng. Võng văng ra, nên anh Trường thoát chết.
![]() |
| Ngày 27/2/2002, đồng chí Phan Diễn (thứ hai từ phải sang, hàng trước), Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng lên thăm gia đình đồng chí Lý Thanh. (Ảnh tư liệu gia đình). |
Nhưng cũng chính nhờ địa thế “rừng thiêng nước độc”, nơi đây đã trở thành địa điểm hoạt động cách mạng bí mật và an toàn, sau này trở thành nơi đặt cơ quan chỉ huy Chiến khu Nguyễn Huệ.
Trong hồi kí, ông Lý Thanh kể lại: Khi về nhà, tôi thấy trong nhà có một bác người lạ, tôi chỉ biết là khách của bố tôi. Tôi không biết bác ấy quan hệ với gia đình tôi như thế nào, nhưng bố tôi và bác ấy thường hay nói chuyện với nhau, câu chuyện kéo dài đến tận khuya. Tôi hỏi mẹ, mẹ tôi bảo bác ấy là người quen của bố, tên là bác Quý, hình như mới ở Bắc Sơn về đây. Mẹ tôi nhắc đến Bắc Sơn, tôi nhớ ngay hôm trước đã phải đi đường vòng để tránh qua Bắc Sơn, vì Bắc Sơn có cuộc khởi nghĩa. Thế là tôi chú ý lắng nghe câu chuyện của bố tôi và bác Quý.
Bác Quý nói với bố tôi là do Tây cướp nước, dân ta mới khổ cực, nhà mới nghèo thế này, Pháp cấu kết với phong kiến phản động trong nước để áp bức, bóc lột dân ta, nay thêm Nhật vào, chúng thi nhau đè đầu cưỡi cổ dân ta. Nên ta phải tìm cách chống Tây, đuổi Nhật.
Sáng hôm sau bác Quý đến gần tôi và bảo: Cháu nghe bác nói có hiểu không, có biết bác nói gì không? Thú thật là tôi chưa hiểu, vì tôi chưa biết chữ, nhưng nghe bác nói, ngẫm lại thì đúng như vậy. Đúng là dân mình nghèo quá, còn bọn Tây và quan lại thì giàu sang. Nên tôi trả lời là cháu cũng hiểu, cháu cũng biết ạ. Ông Quý nói thêm: Cháu là thanh niên (lúc này tôi 17 tuổi), cháu đừng sợ Tây, tuổi thanh niên phải biết làm cách mạng đánh đuổi Nhật Tây cháu ạ! Thấy tôi dần dần có vẻ nghe theo, nên đến hai ngày sau bác Quý bảo: Hôm nay kết nạp cháu vào Hội Thanh niên phản đế, cháu nhé!
“Bác Quý” chính là đồng chí Đường Nhất Quý như đã nói ở phần trên, là một trong 4 đảng viên của tổ chức Đảng đầu tiên của tỉnh, được đồng chí Đặng Tùng giác ngộ và kết nạp ở La Bằng (Đại Từ) năm 1936. Đồng chí Đường Nhất Quý đã giác ngộ và kết nạp đồng chí Lý Thanh vào Hội Thanh niên phản đế (sau này là Hội Thanh niên Cứu quốc) và đến tháng 2/1942, đồng chí Quý cử đồng chí Lý Thanh phụ trách Hội Thanh niên Cứu quốc huyện Đại Từ. Chỉ sau một thời gian ngắn, với sự vận động của đồng chí Lý Thanh, nhiều thanh niên trong xã đã tích cực tham gia Hội. Đây là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của phong trào cách mạng ở Yên Lãng trong những năm tiếp theo.
Tháng 4/1943, đồng chí Tân Hồng (tức Chu Văn Tấn), Chỉ huy Cứu quốc quân quyết định đặt căn cứ tại Núi Hồng, trên địa bàn xã Yên Lãng. Ngày 11/10/1944, Xứ ủy Bắc Kỳ đã chỉ đạo Chi bộ Nhà tù Chợ Chu tổ chức vượt ngục thành công cho 12 đồng chí (trong số này có đồng chí Song Hào, sau này là Bí thư Khu ủy Phân khu Nguyễn Huệ; đồng chí Nhị Quý sau là Bí thư Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Thái Nguyên và đồng chí Lê Trung Đình sau là Chủ tịch Ủy ban nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh Thái Nguyên).
Trong hồi kí, ông Lý Thanh viết: “Tôi và một số anh em thanh niên được các đồng chí lãnh đạo giao nhiệm vụ đón 12 chiến sĩ cách mạng vượt ngục đã về đến Na Mao. Đây là một nhiệm vụ rất vẻ vang nhưng cũng rất nặng nề. Cụ thể là chúng tôi có nhiệm vụ đón các đồng chí vượt ngục từ Định Hóa về tập trung tại nhà tôi… Gia đình tôi ngoài nhiệm vụ giữ gìn bí mật, bảo vệ các đồng chí cán bộ cách mạng còn nuôi dưỡng và chăm sóc sức khỏe đối với các đồng chí bị ốm yếu. Bà con và các gia đình giác ngộ cách mạng ở xung quanh đã ủng hộ về lương thực thực phẩm, thuốc men và nghe ngóng những động tĩnh từ phía địch”.
Cuốn Lịch sử Đảng bộ xã Yên Lãng (1946 -– 2010), trang 40 cho biết: Từ cuối tháng 10 đến tháng 12/1944, đồng chí Song Hào sống và làm việc tại nhà bà Đàm Thị Lan (mẹ đồng chí Lý Thanh). Gia đình đồng chí Lý Thanh đã che chở, giúp đỡ đồng chí Song Hào như anh em ruột thịt. Cũng trong cuốn sách này, có ghi lại sự kiện ông Lý Thanh đã mưu trí để giải thoát an toàn cho các đồng chí cán bộ ở nhà mình: Vào đầu tháng 12/1944, bọn địch lùng sục vào Khuôn Muống lùng bắt cán bộ. Chúng giả vờ đi tìm mua gà, vịt để dò la tin tức. Lúc này trong nhà đồng chí Lý Thanh có 6 đồng chí cán bộ là Chu Văn Tấn, Song Hào, Vận, Lê, Hát, Ân. Đồng chí Lý Thanh đã nhanh trí bắt gà của gia đình để biếu chúng. Sau khi nhận được gà, địch kéo về đèo Khế để ăn uống, nhờ đó các cán bộ được bảo vệ an toàn.
Trong hồi kí, có đoạn ghi: “Vào một đêm cuối tháng 12/1944 đã quá nửa đêm, các đồng chí Khánh Phương, Nhị Quý, Trung Đình đến nhà tôi nói là từ Sơn Dương về đây. Đã gần 11 giờ đêm, nhà tôi chỉ còn nửa bơ gạo và nồi củ chuối để cho bữa trưa hôm sau. Thế là đem ra nấu cháo củ chuối cho các đồng chí ăn tạm. Tôi còn nhớ đồng chí Trung Đình vẫn vui vẻ nói: Ăn củ chuối mới đi làm cách mạng, cơm gạo ngon phải để dành mai kia cách mạng thành công sẽ ăn.
Lúc này đồng chí Hoàng Quốc Việt, Thường vụ Trung ương Đảng thường xuyên đến nhà tôi hơn. Có một lần tôi nghe đồng chí Hoàng Quốc Việt nói chuyện với đồng chí Chu Văn Tấn: Pháp và Nhật sắp đánh nhau, rõ ràng hai con chó nhốt chung một chuồng nhất định cắn xé nhau. Ta phải chuẩn bị tinh thần, nếu Nhật - Pháp đánh nhau, ta có cơ hội giải phóng”.
Như vậy, gia đình ông Lý Thanh là một cơ sở cách mạng, nơi các đồng chí lãnh đạo Trung ương Đảng, Chiến khu Hoàng Hoa Thám, Phân khu Nguyễn Huệ và địa phương thường xuyên qua lại.
Tham gia chiến đấu, giành chính quyền
Cuối năm 1944, đồng chí Đường Nhất Quý cử ông Lý Thanh cùng một số thanh niên địa phương đi học quân sự. Đây là lớp học quân sự do đồng chí Song Hào mở ở Đồng Lũng (xã Phú Xuyên), giảng viên chính là đồng chí Song Hào và đồng chí Tạ Xuân Thu. Lớp do ông Lý Thanh làm lớp trưởng. Trong 10 ngày, các học viên được học chiến thuật đánh du kích, học về kết hợp đánh chính trị và quân sự, kết hợp đánh quân sự và dụ hàng địch, biết sử dụng một số vũ khí thông thường như lựu đạn, súng khai hậu. Sau đó, học viên về các địa phương tổ chức các buổi luyện tập quân sự, phát triển lực lượng tự vệ, tìm cách trang bị vũ khí thô sơ...
![]() |
| Gia đình ông Lý Thanh là nơi liên lạc, cất giấu vũ khí của Cơ quan chỉ huy Chiến khu Nguyễn Huệ. |
Đầu năm 1945, các đồng chí Chu Văn Tấn, Nhị Quý, Đường Nhất Quý bàn cách phải “nhổ” cái đồn khố xanh này của địch ở chân đèo Khế (thuộc xã Yên Lãng). Đồn này khống chế khu vực Yên Lãng và án ngữ con đường sang Tuyên Quang. Ông Lý Thanh được giao nhiệm vụ đánh đồn, nhưng phải đánh bằng mưu mẹo, không dùng súng đạn. Ông cùng một số thanh niên khỏe mạnh leo lên núi ở phía trên của đồn, bí mật chặt cây vàng tâm (cây to gần bằng cột nhà, dài khoảng 5 đến 6 mét), bóc vỏ và lấy khoảng 6 đến 7 đoạn cây như vậy, sau đó kê các đoạn cây này lên giá, hướng xuống đồn địch. Đồng thời vần một số hòn đá tròn, to bằng cái nồi xếp ở cạnh các đoạn cây đó. Vào lúc 3 giờ sáng khi chúng ngủ yên trong đồn, quân ta tháo giá đỡ cho cây và đá lăn xuống. Cả vùng rừng núi vang động ầm ầm. Địch hốt hoảng mở cửa ra, thật may cho chúng là không có cây nào lao vào đồn, nhưng chúng cực kỳ hoảng sợ, sau đó chúng bỏ đồn rút về phủ đường. Ta cho đào, san phá đồn, “nhổ” xong đồn địch mà không tốn một viên đạn.
9/3/1945 Nhật đảo chính Pháp. Lợi dụng thời cơ, ngày 10/3/1945, tại đèo Khế, một đơn vị Cứu quốc quân do đồng chí Chu Văn Tấn chỉ huy đã phục kích đón đánh quân Pháp chạy trốn quân Nhật từ thị xã Thái Nguyên theo đường 13A sang Tuyên Quang. Cách đánh của ta là dùng mưu trí để đoạt lấy vũ khí, không tiêu diệt quân Pháp vì Pháp không phải là kẻ thù trực tiếp của ta nữa. Lực lượng phục kích của ta ở trên đèo nổ súng chỉ thiên đe dọa, quân Pháp thấy bị phục kích, bỏ xe ô tô (trong có nhiều súng đạn) chạy bộ ngược về Đại Từ. Đồng chí Chu Văn Tấn ra lệnh cho đồng chí Lý Thanh huy động và trực tiếp chỉ huy lực lượng nhanh chóng ra thu chiến lợi phẩm chuyển về căn cứ. Số vũ khí thu được có cả súng trung liên, tiểu liên, lựu đạn đều là nhãn hiệu của Mỹ cấp cho Pháp đánh Nhật, đủ trang bị cho hai đại đội.
Đêm hôm đó, tại căn cứ Khuôn Nanh (Yên Lãng), ta tháo lắp súng, thử đạn, thử súng, tiếng nổ vang. Số vũ khí này bàn giao cho Cứu quốc quân và lực lượng Tự vệ Đại Từ. Cũng ngay trong đêm 10/3, một đơn vị Cứu quốc quân của huyện đã vượt đèo Khế sang tập kích một đại đội quân Pháp đóng ở làng Thúc Khê (xã Hợp Thành, Sơn Dương, Tuyên Quang) khiến quân Pháp tháo chạy, ta thu nhiều vũ khí.
Sáng 11/3/1945 dưới sự chỉ huy của đồng chí Nhị Quý, Tự vệ Yên Lãng đã dùng chiến lợi phẩm thu được của quân Pháp để cải trang vào nhà Tổng đoàn Son và các lý dịch xã Yên Lãng tịch thu vũ khí, giấy tờ, bằng triện, sổ sách của chúng, làm cho bọn tay sai ở làng xã hoang mang rệu rã.
Trong những ngày tháng 3/1945, ở nhà ông Lý Thanh lúc nào cũng trong không khí khẩn trương, các đồng chí Chu Văn Tấn (lãnh đạo Phân khu Nguyễn Huệ), Trung Đình (phụ trách Phú Lương), Nhị Quý (phụ trách Đại Từ), đồng chí Kháng (phụ trách Định Hóa) luôn trao đổi bàn bạc định kế hoạch tiến hành giành chính quyền ở các địa phương.
Thực hiện kế hoạch đánh chiếm Hùng Sơn (phủ lỵ Đại Từ), chiều 29/3/1945 tại địa điểm Cây Đa ở Yên Lãng, lực lượng của ta tập trung gồm một đại đội Cứu quốc quân và ba đại đội Tự vệ cứu quốc huyện Đại Từ (ông Lý Thanh làm Đại đội trưởng Đại đội 1).
Sau khi Tri phủ Nguyễn Ngọc Đường không chấp nhận thư kêu gọi đầu hàng, ông Lý Thanh đã hạ lệnh nổ súng tấn công. Đồng loạt các loại súng trung liên, tiểu liên, súng trường... của Đại đội 1 giòn giã nhả đạn vào đồn Bảo An và dinh Tri phủ. Bọn địch hoảng sợ bỏ chạy tán loạn, phủ đường nhốn nháo. Đại đội 1 nhanh chóng đánh chiếm được đồn địch, còn Đại đội 3 đánh chiếm được dinh Tri phủ. Quân ta thu được 200 khẩu súng các loại, lực lượng ta an toàn tuyệt đối.
Sáng 31/3, tại thị trấn Hùng Sơn, hàng nghìn thanh niên và các tầng lớp nhân dân trong huyện đã tham dự cuộc mít tinh do lãnh đạo Phân khu Nguyễn Huệ tổ chức. Tại cuộc mít tinh này, đồng chí Chu Văn Tấn đã tuyên bố xóa bỏ chính quyền của địch, tuyên truyền Chương trình, Điều lệ Việt Minh, kêu gọi nhân dân các dân tộc trong huyện đoàn kết, đứng lên kháng Nhật cứu nước. Kết thúc cuộc mít tinh, cán bộ, chiến sĩ các đại đội Tự vệ cùng đông đảo người dân kéo thẳng đến phá các kho thóc của địch ở Hùng Sơn chia cho dân nghèo, số còn lại chuyển lên căn cứ Núi Hồng dự trữ chuẩn bị đánh Nhật sau này. Nhân dân các dân tộc Đại Từ rất phấn khởi, tin tưởng, quyết tâm bảo vệ chế độ mới và xây dựng đất nước.
Có thể nói, quá trình tham gia cách mạng từ lúc được kết nạp vào Hội Thanh niên Phản đế (1940) đến lúc giành chính quyền cách mạng huyện Đại Từ (1945) mới là giai đoạn khởi đầu trong cuộc đời hoạt động của ông Lý Thanh, một Lão thành cách mạng thuộc hàng “tiền bối” của tỉnh. Sau này ông còn được cử đi công tác ở nhiều nơi, với nhiều chức trách khác nhau: Chính trị viên huyện Bình Liêu (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh). Trưởng ban Tổ chức huyện ủy các huyện: Phú Lương, Đại Từ; Hiệu phó kiêm Trưởng phòng Tổ chức Trường Bổ túc công nông Khu Tự trị Việt Bắc; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Đại Từ; Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đại Từ; Giám đốc Nông trường Tân Việt Hoa; Cán bộ Vụ 1 Ban Dân tộc Trung ương; Phó Giám đốc Bảo tàng Việt Bắc.










Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin