Không khó để nhận ra, gần một thế kỷ đâm chồi nảy lộc và không ngừng chuyển động trưởng thành, văn học thiếu nhi Việt Nam định hình rõ nét ở tất cả các đề tài, thể loại. Văn xuôi có truyện đồng thoại, truyện sinh hoạt, truyện cổ viết lại, truyện cổ tích hiện đại, truyện lịch sử, truyện kỳ ảo - giả tưởng,… Thơ có truyện thơ, câu đố, thơ hiện đại cho thiếu nhi,… Và đề tài, thể loại nào cũng, ít nhiều đều để lại dấu ấn nhất định, đi cùng tuổi thơ, làm giàu đẹp tâm hồn trẻ thơ qua các thế hệ.
Nhưng cũng không khó để thấy rằng, văn học thiếu nhi ngay từ đầu đã phải mang vác vòng kim cô là tính giáo dục, dạy dỗ được đặt lên hàng đầu, thậm chí lộ liễu và đầy sỗ sàng áp đặt.
![]() |
| Một số tác phẩm văn học thiếu nhi và phê bình văn học thiếu nhi. |
Trên tạp chí Văn học của Viện Văn học, số 1 năm 1977, nhà văn, nhà thơ Võ Quảng cho rằng: “Chức năng giáo dục là chức năng hàng đầu của văn học thiếu nhi. Đó là điều khẳng định không cần bàn cãi. Người viết cho thiếu nhi phải có hai tư cách, tư cách người viết văn và tư cách người làm cha làm mẹ muốn con nên người. Câu chuyện phải rõ ràng, tư tưởng chủ đề phải trong sáng. Khi diễn tả tránh mọi hình tượng có thể đưa lại những ý nghĩ không tốt cho các em. Quan điểm sư phạm và văn học thiếu nhi là hai anh em sinh đôi. Văn học thiếu nhi không có lý do đứng được, nếu không phát huy được chức năng giáo dục”. Hay nhà văn Nguyên Ngọc, được xem là nhân tố quan trọng trong quá trình đổi mới văn nghệ, nhưng năm 1980 trong vai trò Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam phát biểu tại Hội nghị Văn học thiếu nhi, sau khi bắt mạch rất đúng và trúng: “Văn học thiếu nhi của ta còn chưa thật vui, mà vui là bản chất của tuổi thơ. Văn học thiếu nhi của chúng ta còn nghiêm trang quá, phần nào hơi già. Và vui, nhưng phải vui thật tự nhiên, có ý nghĩa. Yếu tố tưởng tượng trong những sáng tác của chúng ta chưa thật giàu, chưa thật cao”, ông chốt lại: “Về nội dung và phương hướng sáng tác, lâu dài mà nói, chúng ta dựa vào 5 điều Bác dạy và hai nhiệm vụ chính của chúng ta hiện nay: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”.
Nhắc lại nhận định của hai nhà văn ở trên để thấy rõ hơn một chân thực tế, chúng ta từng như thế, một thời gian dài, thậm chí đến bây giờ, rất nhiều người vẫn còn quan niệm trong văn học thiếu nhi, chức năng giáo dục là quan trọng nhất. Tính giải trí xếp sau chức năng nhận thức và giáo dục, thậm chí là không được ngó ngàng để mắt đến.
***
Nếu cần phải lý giải điều này, thì:
Người Việt chúng ta tắm đẫm và chịu ảnh hưởng sâu rộng, lâu dài bởi hệ tư tưởng Nho giáo. ở đó, chữ nghĩa là của/từ bậc thánh hiền. Chữ nghĩa là để giáo dục, dạy dỗ, không phải thứ giải trí, nhất là khi gắn với con trẻ. Thời kỳ phong kiến Nho giáo kéo dài hơn nghìn năm luôn luôn là vậy.
Rồi Cách mạng đến, là kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và quá trình thống nhất đất nước. Bước ngoặt sang trang của lịch sử dân tộc để lại tác dụng phụ là kết liễu nhiều nhà thơ mới và tạo ra nhiều nhà thơ cách mạng vụng về minh hoạ nôm na. Văn chương cho người lớn còn vậy, huống hồ văn học thiếu nhi. Theo đó, văn học thiếu nhi phải ta thắng địch thua, ta tốt địch xấu. Chữ nghĩa dành cho con trẻ lúc này là lý tưởng, là quả cảm, là “tuổi nhỏ làm việc nhỏ tùy theo sức của mình”. Quán tính này được thể kéo dài ra hun hút về sau, dẫn đến thứ văn chương bước đều bước ngay hàng thẳng lối giáo điều áp đặt. Vô hình trung, nhà văn viết mà như có thầy đồ cầm roi đứng cạnh hay thầy giáo cầm thước kẻ sẵn sàng khẽ tay tét mông nếu viết gì đó không có ích cho tinh thần giáo dục con trẻ.
Cùng thời điểm, bên kia vĩ tuyến 17, đâm chồi từ triết lý giáo dục Nhân bản - Dân tộc - Khai phóng và được tưới tắm bởi các trao lưu chủ thuyết của văn chương phương Tây, nên văn học thiếu nhi ở miền Nam trước 1975 tự nhiên hơn, đỡ gồng đỡ gượng hơn, gần với tâm lý trẻ em hơn, qua các báo/tạp chí như Thiếu Nhi, Thằng Bờm, Tuổi Hoa và đặc biệt là tủ sách Tuổi Hoa với hàng trăm tác giả, tác phẩm đi vào đời sống học sinh - sinh viên một thời. Tuy nhiên, năm 2017, tủ sách Tuổi Hoa được tái bản thì thấy lời giới thiệu ở mặt sau bìa lót mỗi cuốn sách: “Tủ sách ra đời khơi gợi một nền giáo dục nhân bản cho thanh thiếu niên về lòng yêu nước, yêu người, yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên và đức khiêm tốn”.
Như vậy, tuy mức độ khác nhau nhưng tựu trung lại, từ hai miền Nam - Bắc nhất quán quan niệm văn học thiếu nhi như là công cụ để giáo dục con trẻ. Vai trò giáo dục luôn được xem trọng, hàng đầu và lộ rõ trong hầu hết sáng tác văn học thiếu nhi kéo dài suốt thế kỷ 20, loang sang thế kỷ 21.
***
Thật ra, văn học thiếu nhi thế giới cũng phải mất hai thế kỷ mới đẩy được tính giải trí lên trước qua sự bùng nổ của những trinh thám, phiêu lưu, viễn tưởng, hài hước, những nhân vật lệch chuẩn… “Các nhà nghiên cứu lịch sử văn học trẻ em cho rằng sáng tác văn học trẻ em thế kỷ 18 vẫn tiếp tục xu hướng truyền thống thiên về giáo dục. Sang thế kỷ 19, tính giải trí mới được ưu tiên trong sáng tác của các nhà văn và hoạ sĩ minh hoạ. (…) và có một bộ phận đáng kể các tác phẩm cho trẻ em được viết khá tồi và nặng tính giáo huấn vào thế kỷ 19”. Nên, từ thực tế non trẻ của nền văn học thiếu nhi nước nhà, cùng với sức ì, nhiệm vụ từ bối cảnh lịch sử dân tộc, ta hoàn toàn có thể thấu hiểu và chia sẻ với quan niệm chức năng giáo dục trong văn học thiếu nhi.
Nhìn lại, người ý thức sớm nhất và phát biểu mạnh mẽ nhất về tử huyệt tính giáo dục trong văn chương dành cho thiếu nhi, có lẽ là nhà thơ, dịch giả Vũ Ngọc Bình và nhà thơ Định Hải. Từ năm 1975 trên báo Văn nghệ số 38 ra ngày 20/9, nhà thơ, dịch giả Vũ Ngọc Bình đã sớm nhận thấy: “Bởi vì chức năng giáo dục của văn học nghệ thuật khác nào cây đèn ba màu, nó chỉ bật đèn xanh cho những trang sách nào thật lành thật đẹp đi qua, đặng bước vào "con đường lớn" dành cho tuổi nhỏ. Tuy nhiên không phải lúc nào cũng có sự hoà hợp nhịp nhàng giữa điều ta muốn nói với các em và cách diễn đạt, rải rác đó đây vẫn có những câu chuyện, bài thơ còn lộ rõ ý đồ giáo huấn một cách khô khan, trực tiếp hơn là thấm vào chủ đề vào hình tượng, vào ngôn ngữ”. Sau Đổi Mới, nhà thơ Định Hải, “ông chủ bất động sản lớn nhất thế giới” với Bài ca Trái Đất, quyết liệt hơn: “Quan niệm về chức năng giáo dục vẫn còn máy móc và thô thiển. Nhất là giai đoạn đầu từ 1957-1963, và cả giai đoạn tiếp theo từ 1963-1975, chúng ta có quan niệm khá ấu trĩ về vấn đề này”. Tác giả Đàn kiến nó đi bồi thêm, cặn kẽ hơn: “Trong nội dung giáo dục, thường chú ý mặt lý tính mà xem nhẹ mỹ cảm, coi trọng cái trước mắt hơn cái lâu dài, quan tâm phần ngọn hơn là phần gốc, nhấn mạnh giáo dục ý thức chính trị hơn là giáo dục những phẩm chất nhân bản”.
Trong sự chuyển động của dòng chảy văn học thiếu nhi, phải đến cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990 chúng ta mới cảm nhận được có sự nhận diện rõ ràng hơn về tính giải trí trong tác phẩm của một số tác giả. Dấu ấn đầu tiên có lẽ là ở văn chương Nguyễn Nhật ánh. Ngay từ truyện dài Trước vòng chung kết và tập truyện ngắn Cú phạt đền đều xuất bản năm 1985, Nguyễn Nhật ánh đã thổi được tinh thần hài hước, mang tiếng cười vào câu văn, vào đối thoại của nhân vật một cách tự nhiên. Bất chấp một số nhà văn, nhà báo ở thời điểm đó cho là Nguyễn Nhật ánh đã giỡn hơi “nhây”, làm cho văn chương trở nên tầm phào, nhạt đi, nhưng tiếng cười và sự hài hước, hóm lém đã làm nên văn hiệu Nguyễn Nhật ánh, để ông bước tiếp, trở thành hoàng tử bé của thiếu nhi và tuổi mới lớn Việt Nam. Người biết chơi, biết đùa và chơi đùa ra được tinh thần trẻ con và tuổi mới lớn sớm nhất có lẽ là Nguyễn Nhật ánh.
Với thơ thiếu nhi, có vẻ như nhiều nhà thơ bóp phanh/kéo thắng tính giáo dục sớm hơn, qua cái nhìn sự vật hiện tượng hài hước, hóm hỉnh. Nguyễn Hoàng Sơn là trường hợp điển hình như vậy. Tác giả Dắt mùa thu vào phố từng phát biểu: “Khi viết, tôi cố gắng tránh hai thứ bệnh: một là dạy trẻ con, hai là bắt chước trẻ con. Tôi cố gắng không ngây ngô giả vờ”. Và thực tế, ông đã cho Con vện cười bằng đuôi: “Nhưng mà ngộ nhất/Là lúc nó vui:/Chẳng hề nhếch mép/Nó cười bằng… đuôi!”. Hay Vương Trọng cho Con mèo đi câu mà dùng cần câu bằng chính cái đuôi của nó để: “Cá mương nhớn nhác hỏi nhau/Ai câu mà thả mồi câu bằng mèo?”. Hay Nguyễn Duy Quế thông minh, lém lỉnh trong O tròn như trứng vịt, vì cô Ngan dạy O tròn như trứng gà thì họ nhà Vịt không hiểu nên: “Cô giáo Ngan nhanh trí/Vội sửa lại giáo trình/Và cả lớp đồng tình/O tròn như… trứng vịt!”.
***
Bước vào thế kỷ 21, đặc biệt là khoảng mười lăm năm từ 2010 đến 2025, nếu như tác phẩm văn học thiếu nhi của đa số tác giả thuộc thế hệ 7X vẫn còn phảng phất những bài học, tính giáo dục, dù không lộ thiên như trước đây, thì ở sáng tác của một số tác giả trẻ 8X, 9X có sự lột xác rõ ràng hơn, hạn chế được các dấu vết của những bài học răn dạy, nếu có cũng hết sức tự nhiên, khéo léo, nhẹ nhàng, chỉ là sự khơi gợi và không phải tinh thần chủ đạo là nhăm nhe dạy dỗ.
Có thể lý giải, tâm thế viết của tác giả 7X là tâm thế phụ huynh. Mà phụ huynh, dù làm/viết văn thì vẫn bị ý thức làm cha/ mẹ ảnh hưởng phần nào, đó là đọc tác phẩm thì con/cháu mình sẽ thu nhận được bài học gì, phải rút ra được gì đó cho bản thân. Theo đó, tác giả dù tỉnh táo để không sa vào giáo khoa, giáo huấn, giáo điều nhưng vẫn phảng phất ý chìm ý nổi, đôi khi nhồi nhét suy nghĩ vào miệng nhân vật. Và giọng văn phần nhiều nghiêng về phía nghiêm cẩn, thiếu sự hài hước, dí dỏm.
Đến thế hệ 8X, 9X, rất nhiều tác giả sáng tác văn học thiếu nhi khi chưa làm cha làm mẹ. Cộng với sự mở toang ra thế giới bằng ngoại ngữ và văn học dịch nở rộ. Những Pippi Tất dài, Nhóc Nicolas, Nhật ký cậu bé nhút nhát, Thuyền trưởng quần lót,… thậm chí văn chương cho người trẻ như Bắt trẻ đồng xanh, Rừng Na Uy,… vào Việt Nam sau năm 2000, đã được người trẻ tiếp nhận. Tất cả làm nên tập hợp cần và đủ để các tác giả 8X, 9X nghĩ khác, và viết khác trước.
Không khó để nhận ra điều này trong thơ Nguyễn Thế Hoàng Linh, Hà mã đi bộ (Lã Thanh Hà) hay văn xuôi Nguyễn Thị Kim Hoà, Dy Duyên, Lạc An, Huỳnh Trọng Khang. Kể cả một số tác phẩm của Bùi Tiểu Quyên, Lê Quang Trạng, Mai Quyên,... cũng đã khác.
Văn học thiếu nhi trước hết là vần thơ, câu chuyện phả vào trí tưởng tượng và thế giới sinh hoạt của các em nhỏ, chứ dứt khoát không phải giáo dục đạo đức, nếu có, giáo dục phải đến sau, từ xa, thấp thoáng đâu đó. Trong mỗi tác phẩm, các nhân vật cần được hiện lên như chính các em nhỏ đang trò chuyện với nhau, nô đùa với nhau, khóc cười với nhau, không phải như cách người lớn nói chuyện với các em. Và càng không lăm le dạy dỗ phải thế này phải thế khác. Tác giả không nên cố tình chen chân, đặt vào miệng nhân vật nghĩ suy và giọng điệu người lớn của mình.
Tôi hình dung tác phẩm văn học thiếu nhi phân thành ba loại:
[1] Tác phẩm có các nhân vật chính là thiếu nhi, nhưng nhân vật đi đứng nói cười, đặc biệt lời thoại và độc thoại nội tâm, là cái bóng của người lớn, của tác giả, đổ thẳng xuống trang viết. Độc giả đọc, ngỡ mình đi lạc vào tiệm chữ treo hàng trẻ con bán hàng người lớn.
[2] Tác phẩm dựng lên được không gian của trẻ em, đúng thứ trẻ em chờ đợi. Các em đọc, thấy được hành động, nghĩ suy và mộng tưởng của mình và bè bạn. Khi những câu thoại đọc lớn thành tiếng, cảm giác tự nhiên như chính mình đang nói, không ngượng miệng.
[3] Tác phẩm đạt được mục tiêu kép, người lớn yêu và trẻ em mến. Trẻ em đọc thì thấy chính mình, người lớn đọc thì thấy mình của “ngày hôm qua” hoặc đánh thức được những hồn nhiên trong veo đã ngủ quên đâu đó trong mình. Mỗi độ tuổi có cách tiếp cận, tiếp nhận tác phẩm ở tầng nấc khác nhau.
Sinh thời, nhà văn Tô Hoài luôn đau đáu: “… Một tác phẩm hay cho lứa tuổi thơ cũng là một tác phẩm mà bạn đọc lứa tuổi nào cũng thưởng thức được. Tất nhiên, điều cốt lõi, là tác phẩm cho thiếu nhi thì trước tiên phải được thiếu nhi công nhận, bởi đã gây được, khơi gợi được cái yêu thương, cái hờn giận, những kỷ niệm, những nhớ đời cho các bạn tuổi ấy. Nhấn mạnh cái hay riêng cho lứa tuổi cũng là cái hay chung cho mọi người…”. Theo hình dung này, thì văn học thiếu nhi Việt Nam nói chung, phần nhiều thuộc loại thứ nhất, số ít thuộc loại thứ hai, còn loại thứ ba rõ là cực ít.
Từ góc nhìn của người sáng tác, dịch thuật và nghiên cứu phê bình, Nhã Thuyên cho rằng: “Loại bỏ áp lực của văn chương bao cấp tư tưởng, sùng bái các anh hùng và các bài học đạo đức nghiêm trọng để khám phá những đòi hỏi mới về phẩm chất tư duy, tưởng tượng của trẻ em, gắn với văn hóa đất nước và những áp lực mới của giai đoạn “toàn cầu hóa” có lẽ là một viễn cảnh lớn, nhưng có thể là khởi sự của một hy vọng”. Cụ thể hơn, ở tuổi ngoài bảy mươi, ông chủ Xóm Bờ Giậu, nhà văn Trần Đức Tiến, nghiệm lại và khẳng định: “Không ai nói dạy dỗ trẻ (ở một chừng mực hợp lý nào đó) là không cần. Nhưng mình nghĩ, sáng tác văn chương cho trẻ là đang “chơi” với trẻ. Nhà văn là đứa trẻ tốt bụng, thân thiện chơi cùng những đứa trẻ khác. Chơi, thì tốt nhất là quên trường học và sách giáo khoa đi”.
Như vậy, bước vào thế kỷ 21, quan niệm về chức năng, vai trò của văn học thiếu nhi đã được nhận diện lại, tính giải trí được xem trọng, đẩy lên, phù hợp với tâm lý tiếp nhận của người đọc nhỏ tuổi. Cảm giác như đường lớn đã mở, chờ các tác giả dắt người đọc đi tới tương lai, khi vòng kim cô là tính giáo dục trong văn chương đã được nhiều người viết dần cởi bỏ.
1.Vân Thanh (sưu tầm - biên soạn), Văn học thiếu nhi Việt Nam, Tập 1, Nhà xuất bản Kim Đồng, 2003, tr.304.
2.Vân Thanh (sưu tầm - biên soạn), Văn học thiếu nhi Việt Nam, Tập 1, Nhà xuất bản Kim Đồng, 2003, tr.100.
3. Kimberly Reynolds (Phạm Phương Chi, Nguyễn Thị Thanh Hương & Nguyễn Thị Diệu Linh dịch), Nhập môn Văn học trẻ em, Nhà xuất bản Văn học, 2024, tr.33.
4. Định Hải, Ba mươi năm sách Kim Đồng, Báo Văn nghệ số 22 - 23, ngày 6/6/1987.
5. Đỗ Bạch Mai phỏng vấn, Đồng cảm thực sự với tuổi thơ, Báo Văn nghệ số 42, ngày 16/10/1993.
6. Tô Hoài, Đôi điều về văn học cho thiếu nhi hiện nay, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, 8/2000.
7. Nhã Thuyên, Văn học thiếu nhi: Văn chương của sự nhẹ nhõm sâu xa, Hội thảo “Những ảnh hưởng của văn học thiếu nhi đến sự phát triển nhân cách trẻ em trong thời kì đổi mới và hội nhập quốc tế”, 2009.
8.Trần Đức Tiến, Facebook ngày 21/5/2024








Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin