Thời gian trôi đi xuôi vào niềm nhớ, bởi những năm tháng làm cô giáo trẻ vùng cao cách đây cũng ngót mấy chục năm rồi. Nhưng cứ đến dịp kỷ niệm ngày Nhà giáo Việt Nam (20-11) thì những ký ức lưu giữ trong tim tôi lại bừng thức. Tôi bồi hồi ngồi đếm kỷ niệm xưa.
Ngược dòng thời gian hơn 40 năm trước, khi vừa qua tuổi đôi mươi, tôi được phân công về dạy học tại “Trường Thanh niên Dân tộc Nội trú vừa học vừa làm” nơi miền núi cao xa xôi thuộc khu vực Bắc Kạn, tỉnh Bắc Thái (cũ). Hình ảnh cô giáo trẻ mặc áo dài trắng, đứng trên bục giảng của ngôi trường khang trang nơi thành phố cùng tiếng cười trẻ thơ chỉ còn là ước mơ xa vời. Dẫu vậy tôi cũng chẳng hề nghĩ được những khó khăn vất vả đang chờ ở phía trước như thế nào.
![]() |
| Minh họa: Trần Ngọc Kiên |
Ngày nhập trường, chắc thương con gái đi dạy vùng sâu xa nên mẹ đưa tôi đi. Chiếc xe đạp nhọc nhằn men theo những con đường chênh vênh bên sườn núi, xa hun hút về phía đại ngàn. Nhiều đoạn đường đèo gồ ghề sỏi đá nên hai mẹ con phải dắt bộ. Để sang được trường, tôi phải lội qua khúc sông sâu chảy khá xiết. Thầy hiệu trưởng nhà trường có nước da nâu bóng, dáng vẻ người bản địa hăm hở lội sông sang đón tôi. Cả tập thể giáo viên, học sinh đứng bên kia bờ sông vỗ tay chào đón và cười nắc nẻ khi thấy một cô giáo trẻ măng, tóc đuôi sam, ngơ ngác cùng mẹ đến trường. Cho đến tận bây giờ, mẹ tôi đã về miền mây trắng nhưng mỗi khi nhớ lại ngày đó, tôi vẫn khóc nghẹn ngào thương nhớ mẹ.
Chặng đường đầu đời đầy gian nan, thắp sáng sự học nơi vùng cao với cô gái trẻ măng như tôi thực sự không hề dễ dàng. Thì ra mọi thứ không như mình nghĩ hay tưởng tượng. Ngôi trường như một đảo xanh hẻo lánh, biệt lập cách xa dân bản, ba bề bốn bên chỉ có núi đồi và sông. Ngày đêm nghe tiếng nước chảy rì rào của con sông Pác Cáp bao quanh. Mặt trời xuống núi ngôi trường đã chìm trong bóng tối vì không điện thắp sáng. Ánh đèn pin, bếp lửa nhập nhòa trong sương núi. Thông tin duy nhất là những chiếc đài nhỏ chạy bằng pin. Học sinh là những chàng trai cô gái dân tộc thiểu số, được giáo viên về tận thôn bản chiêu sinh. Các em được học theo chương trình bổ túc văn hóa cấp 2. Mỗi năm học sinh được nhà nước hỗ trợ sáu tháng lương thực và chút tiền phụ cấp, sáu tháng còn lại là tự túc. Thầy trò phải cùng nhau lao động sản xuất chăn nuôi, trồng trọt. Lúc ấy tôi mới hiểu vì sao không ít người phải chùn chân bỏ cuộc bởi sự khắc nghiệt của hoàn cảnh, của nghề.
Thế rồi cũng chính nơi đây, giữa bạt ngàn xanh, giữa hoang vu gió lạnh, giữa những hy sinh âm thầm tôi thấy mình trưởng thành vững bước. Chính các thầy cô giáo người dân tộc thiểu số và các anh chị giáo viên đã gắn bó nhiều năm ở đây đã truyền lửa cho tôi. Họ là những tấm gương yêu nghề có cuộc sống bình dị nhưng ẩn giấu một nghị lực mạnh mẽ hơn cả những đỉnh núi.
Nhớ về cái thời: cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng bản địa với các em học sinh mà tôi vẫn trào dâng cảm xúc. Sáng lên lớp, chiều chiều chúng tôi trở thành những nhà nông thực thụ. Tôi quen dần với việc phát rẫy, làm ruộng, lên nương trồng ngô, trồng sắn, vào rừng chặt chuối, lấy măng, lấy củi... Giáo viên tự bắt cá, săn thú, trồng rau... cải thiện bữa ăn. Món canh ốc sông thơm ngon để nguyên vỏ chỉ chặt tí chôn nấu cùng lá lốt và nghệ đến giờ tôi vẫn không thể quên. Cuộc sống tuy nghèo khó, kham khổ nhưng tình cảm thì đầy ắp.
Dành tình thương cho các em học sinh dân tộc đôn hậu thật thà, tôi hòa mình vào các hoạt động văn hóa của các dân tộc thiểu số, học nói tiếng các dân tộc thiểu số để giao tiếp, giảng bài. Những đêm mùa đông giá lạnh, quanh đống lửa cháy rực, cô trò ngồi quây quần bên nhau vừa trao đổi bài vừa tẽ ngô, băm sắn, sao chè. Những làn điệu dân ca Tày, Nùng, Mông bay lượn cùng làn khói bếp ngày ấy mãi chảy trong tâm khảm tôi…
Mùa chiêu sinh cũng là mùa mưa, chúng tôi đã phải đi bộ lặn lội cả ngày trời trên những cung đường dài chông chênh, sạt lở… đến tận nhà bà con kiên trì vận động các em đến trường học chữ. Đến trường nhiều học sinh còn chưa ý thức được tầm quan trọng của việc học nên rủ nhau bỏ về đi nương, đốn củi, lấy vợ lấy chồng. Những lúc ấy tôi lại thầm thương các cô giáo đã qua tuổi thanh xuân nơi đây mà vẫn không tìm được hạnh phúc riêng. Gắn bó với trường với trò nên thường cuối tháng tôi mới vượt núi rừng trở về với gia đình.
Có lần những cơn mưa rừng rơi nặng hạt như trút, con đường độc đạo bỗng chốc nhão nhoét, trơn trượt nhiều đoạn sạt lở. Cơn lũ khiến nước sông dâng cao hung dữ, tôi phải chèo mảng bằng những thân cây chuối ghép lại để sang trường. Mùa mưa lũ kéo dài, trường học bị cô lập, cô trò chỉ có những bữa cơm rau đạm bạc cầm chừng. Nhớ mãi cảnh cô trò tìm lối rừng rậm rạp trong đêm, vòng sau mấy quả núi tránh sông cáng trò đi bệnh viện mổ đau ruột thừa... Nhưng những ánh mắt trìu mến, tiếng vỗ tay, tiếng hát, tiếng cười hồn nhiên... vẫn níu chân chúng tôi với “Đảo Xanh”. Các em học sinh vẫn miệt mài với con chữ và dành cho tôi những tình yêu thương. Chỉ bấy nhiêu thôi đã tạo nên động lực, niềm tin và sự cống hiến nhỏ bé của tôi cho giáo dục vùng cao. Lớp lớp học sinh lần lượt ra trường trở về địa phương nhiều em trưởng thành làm cán bộ thôn, xã, nhiều em thoát ly đi học nghề, làm công nhân… Tôi thấy mình vinh dự góp phần nhỏ bé đem lại tương lai tươi sáng hơn cho học sinh vùng cao. Tôi nhớ đến lời của một triết gia: “Con người sẽ trở nên hạnh phúc và thành công nhất khi được cống hiến”.
Ngày chuyển đơn vị công tác, tôi mang theo bao nỗi niềm. Mô hình trường thanh niên dân tộc nội trú vừa học vừa làm sau này cũng không còn nữa. Thật đúng khi ta nói: khoảng thời gian đẹp nhất là khoảng thời gian không thể quay trở lại. Kỷ niệm về những ngày đầu cô giáo trẻ vùng cao mãi còn nguyên vẹn trong tôi. Ký ức một thời tuổi trẻ cùng cái tên thân thương:
“Cô giáo đảo xanh” còn xanh mãi.








Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin