Tháng Mười một về, trên những vạt đồi, dưới thung lũng, những bông dã quỳ với sắc hoa vàng tươi lại đung đưa trong cái lạnh, nhưng vẫn kiêu hãnh đón chờ bình minh.
Tháng Mười một thường khơi dậy trong mỗi người ký ức về những người thầy, người cô mình trân quý, những bó hoa mào gà hay dã quỳ giản dị mà chứa đựng bao tình cảm của lũ học trò ngheo hái tặng thầy cô. Còn với riêng tôi, tháng Mười một gợi lại kỷ niệm về một cô học trò đặc biệt.
![]() |
Ra trường, tôi xin dạy hợp đồng và nhận được sự phân công công tác tại Khâu Luông- một điểm trường xa xôi của huyện. Dốc và dốc, là điều tôi thấy rõ nhất suốt quãng đường đi bộ bốn giờ đồng hồ. Đến nơi cũng là lúc mặt trời chênh chếch núi. Ngồi bên hiên ngôi nhà tập thể bưng ván, với mái lợp Fibro-xi-măng đã xiêu vẹo nằm chênh vênh bên sườn đồi hun hút gió, xung quanh là nương rẫy của người dân. Ánh chiều bảng lảng buông dần sau làn sương mỏng, lòng tôi không khỏi nhớ nhà. Để xua đi cảm giác đó, tôi quay vào dọn dẹp chỗ ngủ. Chiếc giường xập xệ, với bốn chân chôn sâu xuống đất, giát giường là thân những cây vầu được bổ ra ghép vào đã được tôi sắp xếp lại tương đối ổn.
Khi tôi còn đang loay hoay tìm cách nhóm bếp thì bỗng có một cô bé chừng mười hai mười ba tuổi bước vào với lời chào thật gần gũi: Cô giáo mới lên à? Để em giúp cô nhóm bếp nhé! Tôi chưa kịp trả lời thì cô bé đã mau mắn gác những thanh củi còn lại của căn bếp đã nguội lạnh suốt ba tháng hè lên nhau và chẳng mấy chốc, ánh lửa đã sáng rực cả góc nhà. Tôi cảm ơn cô bé và bắt chuyện. Cô bé không nói nhiều, chỉ cười. Nụ cười rất duyên với đôi má lúm và hàm răng trắng ngần. Lúc ra về, cô chỉ nói một câu: Em tên Mỵ, mai lại gặp cô giáo nhé! Nói rồi, cô bé ngược dốc chạy một loáng đã khuất sau bụi cây.
Sáng hôm sau, tôi lên lớp để nhận học sinh và làm quen với các em. Tôi cứ nghĩ sẽ gặp lại Mỵ, nhưng trong đám học sinh lại chẳng thấy em đâu. Tôi thoáng băn khoăn. Sau khi đối chiếu danh sách học sinh với số học sinh hiện có, tôi vẫn không thấy tên Mỵ. Vậy nghĩa là Mỵ không phải là học sinh của lớp sao?
Suốt cả buổi học đầu tiên, tôi vẫn chưa thể lý giải được băn khoăn đó. Cũng chẳng biết đem chuyện này hỏi ai, bởi mình mới đến. Vài học sinh nói với tôi: Mỵ không phải người ở đây. Khi tôi hỏi rõ hơn thì các em đều trả lời không biết. Điều đó càng khiến tôi muốn tìm hiểu thêm về cô bé này.
Sau buổi đầu làm quen và phân công nhiệm vụ cho từng thành viên của lớp, tôi trở lại tập thể để chuẩn bị cho bữa trưa thì bất ngờ thấy Mỵ đứng ở cửa. Tay cầm một túm gì đó gói trong lá chuối rồi đưa cho tôi và nói: Cho cô giáo nè. Tôi nhận lấy, mở lá ra xem, đó là những quả cà chua thóc đỏ chín mọng. Rồi chẳng kịp để tôi cảm ơn, Mỵ lại chạy ngược dốc về nhà.
Chiều hôm ấy tôi cũng ngược dốc đi xem xét xung quanh. Men theo lối mòn tôi đến một căn nhà bé, xập xệ, bằng những mảnh liếp đã cũ, mái lợp bằng thân cây vầu to, bổ ra rồi xếp ngược nhau như ngói âm dương. Tôi tò mò bước đến. Cánh cửa mở nhưng không thấy ai. Tôi nhìn quanh căn nhà một lượt, đồ đạc đơn giản quá: mấy cái bát, hai cái nồi và chiếc bàn nhỏ cùng hai cái ghế con cạnh bếp. Ngó ra ngoài hiên là một vườn rau nhỏ, bên cạnh vườn chiếc chuồng lợn đã sập một mái chỉ có một con đang độ lớn.
Tôi đang mải quan sát thì tiếng Mỵ khiến tôi giật mình: Cô giáo đến chơi à? Tôi vội quay lại. Mỵ mời tôi vào nhà rồi mới dần mở lòng mình nói chuyện. Nhà em ở phía bên kia núi, nghèo lắm. Bố thì hay uống rượu nên bắt em đi lấy chồng sớm để có tiền uống rượu. Em đến đây làm dâu nhưng chồng không cho em vào nhà ở. Chồng em bảo nó còn đi học. Tôi đang băn khoăn không biết chồng Mỵ là ai thì Mỵ nói: Chồng em là Sênh ấy, học lớp cô giáo mà. Ra thế, tôi chợt nhớ đến một cậu bé lớn tuổi nhất lớp nhưng dáng người nhỏ con, nói năng lưu loát. Trước đó tôi cũng được nghe trưởng bản nói về tình trạng tảo hôn ở nơi đây. Tôi thoáng nghĩ cũng chẳng thể trách Sênh khi em ấy vẫn đang ở tuổi cắp sách đến trường. Cuộc hôn nhân này đều do bố mẹ hai bên tự thoả thuận mà thành.
Tối đó, dù ngồi soạn bài nhưng đầu óc tôi không ngơi nghĩ về Mỵ. Bỗng tôi thấy loáng bóng đèn pin và rồi Mỵ bước vào. Tôi bảo Mỵ ngồi chơi, thấy Mỵ chăm chú nhìn tôi viết bài, tôi bất giác hỏi. Mỵ học lớp mấy rồi? Mỵ chỉ cười lắc đầu. Em có muốn đi học không? Đôi mắt Mỵ sáng lên niềm vui, rồi bỗng chùng lại. Tôi gặng mãi em mới nói. Em còn phải đi làm nương. Mỵ có biết chữ không? Mỵ nhìn tôi vẻ ái ngại. Để an ủi em, tôi bảo: Không sao, nếu Mỵ muốn học, buổi tối Mỵ xuống đây, cô giáo dạy cho Mỵ nhé! Mỵ vui sướng vỗ tay: Thật à cô giáo? Tôi gật đầu mà lòng vui khấp khởi.
Từ đó, tối nào Mỵ cũng xuống học với tôi. Ban đầu, Mỵ chưa quen cầm bút nên nét chữ còn nguệch ngoạc và phát âm cũng chưa rõ. Nhưng nhờ sự kiên trì và ham học Mỵ đã thay đổi rõ ràng. So với các học sinh trên lớp tôi dạy, Mỵ đã tiến bộ hơn hẳn. Tiếng đọc bài của Mỵ hay như tiếng hát của em mỗi khi vui vẻ Mỵ hát cho tôi nghe những bài hát của dân tộc mình.
Rồi năm học cũng dần khép lại, lúc này cô học trò đặc biệt của tôi cũng đã đọc viết thành thạo. Trước ngày tôi về mấy hôm, Mỵ có rủ tôi đi hái rau rừng và lấy củi. Hai cô trò nói chuyện rất vui vẻ, rồi Mỵ thông báo cho tôi một tin: Sênh cho Mỵ về nhà ở cùng rồi cô ạ! Nhìn đôi mắt Mỵ tôi hiểu em cần có một mái nhà thế nào. Tôi ôm em và dặn: Mấy hôm nữa cô về rồi, em ở lại chăm chỉ đọc sách và viết bài nhé! Mỵ gật đầu trong nước mắt.
Ngày tôi về, Mỵ cứ bịn rịn không thôi, Mỵ đưa cho tôi một tờ giấy và bảo: Cô giáo về mới được mở ra xem nhé. Rồi Mỵ cầm chiếc khăn còn thơm mùi vải mới dúi vào tay tôi. Đây là chiếc khăn em tự làm tặng cô giáo đấy. Cô đừng quên em nhé! Tôi vội quay đi để ngăn dòng nước mắt đã trào ra từ lúc nào.
Giờ đây, khi nhớ lại những ngày đầu tiên trên bục giảng, tôi không sao quên được Mỵ dù đã mười tám năm trôi qua. Đôi má lúm đồng tiền đó, hàm răng với nụ cười trong veo đó, tiếng đọc bài và tiếng hát líu lo đó cứ như một khúc nhạc êm ái gieo vào lòng tôi. Và thi thoảng, tôi lại đem tờ giấy Mỵ viết cho tôi ra đọc. Nhìn từng dòng chữ nắn nót, tôi thấy hiện những tháng ngày Khâu Luông êm đềm.








Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin