Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, việc giành chính quyền diễn ra trong bối cảnh đặc biệt, mang tính bước ngoặt của lịch sử dân tộc. Tại Thái Nguyên, tiến trình này có nhiều điểm khác biệt so với tình hình ở các địa phương khác.
Sau khi chính quyền cách mạng được thiết lập, trong suốt một tuần, quân Nhật tại Thái Nguyên vẫn cố thủ trong đồn bốt, bị lực lượng cách mạng bao vây và hoàn toàn cô lập. Đến ngày 26/8/1945, chúng mới chấp nhận giao nộp vũ khí và rút lui về Hà Nội
Các huyện giành chính quyền trước tỉnh
Trong Cách mạng Tháng Tám (1945) có điểm khác biệt về tình thế cách mạng, đó là Tổng khởi nghĩa nổ ra vào thời điểm phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng vô điều kiện các nước Đồng minh (15/8/1945). Khi thời cơ cách mạng đến, Bác Hồ và Trung ương Đảng đã nhanh chóng nắm bắt, phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Chúng ta vừa mềm mỏng để tránh tổn thất cho cách mạng (vì địch đã ở thế thua), song cũng vừa phải cương quyết trấn áp bằng bạo lực cách mạng để buộc chúng không thể chần chừ, tráo trở; không để cơ hội cho đội quân của phe Đồng minh kịp vào nước ta tước vũ khí của quân đội Nhật...
![]() |
| Một số đồng chí Giải phóng quân sau khi cướp chính quyền ở Thái Nguyên (8/1945). Ảnh tư liệu Bảo tàng Lịch sử Quốc gia |
Nghiên cứu về quá trình giành chính quyền ở tỉnh Thái Nguyên trong Cách mạng Tháng Tám, chúng ta cần chú ý đến ảnh hưởng lan tỏa từ hai trung tâm cách mạng trên địa bàn tỉnh. Đó là vùng Phú Bình, Phổ Yên (nằm trong ATK II) ở khu vực phía Nam và vùng Đại Từ, Định Hóa ở khu vực phía Tây Bắc (liền kề với Tuyên Quang, Thủ đô của Khu Giải phóng Việt Bắc).
Nói về trung tâm cách mạng phía Nam, năm 1943, Trung ương Đảng lựa chọn vùng tiếp giáp của ba huyện: Hiệp Hoà tỉnh Bắc Giang và Phú Bình, Phổ Yên tỉnh Thái Nguyên (bao gồm địa bàn xã Kha Sơn, huyện Phú Bình; xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên thuộc tỉnh Thái Nguyên và xã Hoàng Vân, huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang để xây dựng ATK II (nơi ở và làm việc của Trung ương và Xứ ủy Bắc Kỳ). Vì thế, hai huyện Phú Bình, Phổ Yên là vùng đất An toàn khu, nơi có phong trào cách mạng mạnh mẽ, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban cán sự ATK và Xứ ủy Bắc Kỳ.
Khái lược về tình hình ở huyện Phú Bình, sách “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên tập 1, (1936 - 1965)” xuất bản năm 2003, ghi: Ngày 13/3/1945, đồng chí Lê Thanh Nghị, Xứ ủy Bắc Kỳ dự Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương (mở rộng) về đến Kha Sơn đem theo tinh thần Chỉ thị “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” truyền đạt cho Chi bộ Kha Sơn. Ngay chiều 13, Chi bộ Kha Sơn họp và quyết định: Diệt bọn Việt gian đầu sỏ, có tội ác để đẩy mạnh khí thế cách mạng của quần chúng, thu bằng triện của chánh tổng, lý trưởng, lập chính quyền cách mạng, thu súng của tráng dõng đem trang bị cho tự vệ; thành lập thêm nhiều tiểu đội tự vệ, hậu thuẫn cho quần chúng phá kho thóc của Nhật đem chia cho dân để cứu đói. 8 giờ sáng 14/3/1945, từ Kha Sơn Hạ, mệnh lệnh khởi nghĩa được ban bố. Đến 12 giờ, lực lượng cách mạng đã hoàn toàn làm chủ. Ngay sau đó một cuộc mít tinh quần chúng được tổ chức tại đình Kha Sơn Thượng. Tại cuộc mít tinh, đại diện Mặt trận Việt Minh xã tuyên bố xoá bỏ chính quyền tay sai, thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng xã. Đây là xã đầu tiên của tỉnh Thái Nguyên giành được chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Cuối tháng 3 năm 1945, các xã Dương Thành, Lương Phú, Thắng Lợi, Bảo Lý, Đào Xá, Đồng Liên... cũng đập tan chính quyền tay sai phát xít, thành lập chính quyền cách mạng...
Sách “Lịch sử Đảng bộ huyện Phú Bình (1943 - 2018)” xuất bản năm 2019 cho biết: Trong suốt thời gian từ năm 1943 đến Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, các cơ quan của Trung ương và Xứ ủy thường xuyên hoạt động tại ATK II. Từ khi trở thành ATK II của Trung ương và Xứ ủy Bắc Kỳ, phong trào cách mạng ở Phú Bình phát triển rất nhanh chóng. Tối 28/3/1945, tại xóm Soi (Kha Sơn Hạ), trung đội vũ trang tập trung đầu tiên của Phú Bình, Hiệp Hòa làm lễ ra mắt. Ngay sau ngày thành lập, Trung đội đã hỗ trợ nhân dân phá kho thóc của Nhật ở đồn điền Đào Ký (Phú Bình) và đồn điền Trị Cụ (Hiệp Hòa) thu gần 500 tấn thóc chia cho dân nghèo ở hai huyện. Ngày 25/6, lực lượng vũ trang ta phục kích tại kè Đức Lân, thu 5 xà lan chở đầy hàng hoá của Nhật, bắt gọn bọn lính áp tải hàng. Cùng ngày, ta đánh đồn điền Chã (Phổ Yên) thu hơn 200 tấn thóc. Ngày 26/6, ta phá kho thóc Cầu Mây thu 300 tấn thóc, trong đó một phần dùng để cứu đói, một phần cấp dưỡng cho các đơn vị vũ trang.
![]() |
| Đình Kha Sơn Thượng, huyện Phú Bình – Nơi thành lập chính quyền xã Kha Sơn Thượng và là nơi hoạt động bí mật của Xứ ủy Bắc Kỳ (thời kỳ 1939 - 1945). Ảnh tư liệu lịch sử |
Được sự giúp đỡ của trung đội vũ trang tập trung, các tổ tự vệ cứu quốc được thành lập. Đến đầu tháng 8/1945, hầu hết các làng đều có từ 15 đến 20 đội viên tự vệ chiến đấu. Các cuộc đấu tranh mạnh mẽ trong cao trào kháng Nhật của nhân dân, nhất là hoạt động của trung đội vũ trang tập trung đã làm tê liệt ý chí của chính quyền tay sai từ huyện xuống các làng xã. Việt Minh hoạt động công khai, quân Nhật đóng ở huyện lỵ không dám chống cự.
Tại Phổ Yên, theo cuốn “Phổ Yên – Lịch sử kháng chiến chống xâm lược và bảo vệ Tổ quốc (1947 - 2017)” do Ban Chỉ huy Quân sự huyện Phổ Yên xuất bản năm 2018 viết: Ngày 19/8/1945, sau khi nhận được tin Hà Nội Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi, chớp thời cơ đó, các đồng chí Minh Đức, cán bộ, đảng viên hoạt động ở vùng Tân Lợi huyện Đồng Hỷ(1) và Lê Văn Ngọ giáo viên quân sự đang trên đường công tác đã huy động nhân dân Phố Cò và nhân dân Sơn Cốt ra bao vây, uy hiếp, tấn công chiếm huyện đường Phổ Yên. Trước khí thế mạnh của quần chúng, tri phủ Đồng Mạnh Tư và các tên Cai Đương, Đội Sát sợ hãi, ra lệnh cho binh lính và quan lại đầu hàng, nộp toàn bộ vũ khí, ấn tín và giấy tờ, tài liệu. Đoàn biểu tình thị uy tiến qua Phố Cò lên giáp huyện Đồng Hỷ, sau đó quay lại huyện đường đốt giấy tờ, tài liệu, phá đồ đạc rồi giải tán, toả về làng, xã.
Sáng 20/8/1945, ban lãnh đạo khởi nghĩa và chỉ huy lực lượng vũ trang Phổ Yên vào tiếp quản phủ lỵ đã được giải phóng, tuyên bố giải tán chính quyền địch, kêu gọi nhân dân, các đoàn thể Việt Minh ổn định trật tự trị an, giúp đỡ lực lượng khởi nghĩa truy bắt bọn Việt gian có tội ác với nhân dân, trừng trị những tên Việt gian ngoan cố chống lại cách mạng.
Về ảnh hưởng của trung tâm cách mạng vùng phía Tây Bắc, từ ngày 4/6/1945, Khu Giải phóng chính thức được thành lập, bao gồm 6 tỉnh rộng lớn: Cao Bằng - Bắc Kạn - Lạng Sơn - Hà Giang - Tuyên Quang - Thái Nguyên. Tân Trào được chọn làm Thủ đô Khu Giải phóng. Huyện Định Hóa (tỉnh Thái Nguyên) trở thành lá chắn bảo vệ cửa ngõ phía Đông, đồng thời cũng là nơi cung cấp các nhu cầu về vật chất cho Thủ đô Khu Giải phóng.
Về phong trào cách mạng ở Định Hoá, tối 25/3/1945, một Trung đội Cứu quốc quân, có lực lượng tự vệ phối hợp bao vây đồn khố xanh và châu lỵ. 3 giờ sáng ngày 26-3, ta nổ súng đánh đồn lính khố xanh, binh lính hốt hoảng bỏ đồn tháo chạy. Tiếng súng đánh đồn khố xanh của Cứu quốc quân làm cho bọn lính cơ và lính dõng bảo vệ dinh Tri châu cũng bỏ chạy tán loạn. Tên Tri châu sợ hãi trốn khỏi châu lỵ, ngày hôm sau (27-3) xin ra đầu thú. Châu lỵ Định Hoá hoàn toàn giải phóng. Cứu quốc quân phá nhà lao giải thoát cho hơn 200 tù nhân, trong đó có 30 tù chính trị, phá kho thóc chia cho dân để cứu đói.
Ở Phú Lương, ngày 5/4/1945, đại diện Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân tuyên bố xoá bỏ chính quyền tay sai của phát xít Nhật, thành lập chính quyền cách mạng xã Ôn Lương. Đây là chính quyền cách mạng xã đầu tiên của huyện Phú Lương được thành lập. Tiếp đó, cao trào cách mạng lan rộng ra các xã Động Đạt, Cổ Lũng, Phấn Mễ, Tức Tranh, Sơn Cẩm...
Ngày 25-6, tự vệ Phú Lương phục kích bắt sống tên chỉ huy đồn Bảo An, Phấn Mễ… Tòa án nhân dân được thành lập và tuyên án tử hình tên tay sai gian ác này. Phiên tòa gây tiếng vang lớn, quần chúng phấn khởi. Bọn tay sai Nhật càng hoang mang. Tên huyện trưởng bỏ nhiệm sở, chạy trốn. Chính quyền tay sai của Nhật ở Phú Lương tan rã. Quân Nhật lúc này co cụm lại trong các đồn Giang Tiên, Phấn Mễ, đồn điền Na.
Ở Đại Từ, ngày 29/3/1945, đơn vị Cứu quốc quân do đồng chí Chu Văn Tấn chỉ huy có lực lượng tự vệ các xã phía Bắc phối hợp và hàng trăm quần chúng sôi sục khí thế cách mạng kéo về bao vây huyện lỵ Đại Từ. Vốn đã hoàn toàn suy sụp về tinh thần, lại bị lực lượng vũ trang và quần chúng cách mạng áp đảo, bộ máy thống trị của địch lập tức bị sụp đổ. Quan, quân vứt tài liệu, súng ống chạy tháo thân. Sáng 31-3, Cứu quốc quân tổ chức một cuộc mít tinh quần chúng ở phủ lỵ, tuyên bố chính quyền địch từ huyện đến làng, xã đã bị xoá bỏ, hiệu triệu mọi người góp công góp sức ủng hộ cách mạng, xây dựng chính quyền mới. Sau cuộc mít tinh, Cứu quốc quân dẫn đầu đoàn người, kéo đi phá kho thóc Hùng Sơn đem chia cho nhân dân.
Theo cuốn “Lịch sử Đảng bộ huyện Đại Từ (1936 – 2015)” tái bản năm 2015: Chấp hành quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc (ban bố đêm 13/8/1945, tại Tân Trào), Quân giải phóng ở Đại Từ tiến về chuẩn bị đánh huyện lỵ. Quân Nhật phải vào lô cốt cố thủ. Giữa lúc ấy, ta lại nhận được lệnh cần đưa đại bộ phận lực lượng vũ trang về thị xã Thái Nguyên đánh Nhật. Giải quyết được lực lượng Nhật ở tỉnh lỵ thì quân Nhật ở các nơi không đánh cũng tan rã. Do vậy ta chỉ để lại một bộ phận nhỏ để bao vây địch, còn lực lượng lớn chuẩn bị kết hợp với quân chủ lực kéo về giải phóng thị xã Thái Nguyên.
Tiến công, giải phóng thị xã Thái Nguyên
14 giờ 30 ngày 16/8/1945, dưới cây đa Tân Trào một đơn vị Quân giải phóng trong đó có một bộ phận bộ đội Việt - Mỹ, do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy làm lễ xuất quân, tiến về giải phóng thị xã Thái Nguyên .
Tối 19/8/1945, Bộ Chỉ huy Quân giải phóng triệu tập một cuộc họp chung với cán bộ lãnh đạo tỉnh để thống nhất lực lượng và hoạt động chung “Khởi nghĩa giải phóng thị xã Thái Nguyên”. Lúc này, địch trong thị xã đóng thành hai cụm, một cụm lính Nhật và một cụm lính bảo an.
Quân Nhật khoảng 120 tên, do một tên quan tư chỉ huy, trong số đó có từ 60 đến 70 tên đóng tại trại lính khố xanh cũ và dinh Công sứ Pháp trên đồi cao, có công sự kiến cố. Số còn lại đóng ở các điểm lẻ trong những ngôi nhà gạch lớn, có cấu trúc kiên cố như nhà Gô-chi-ê, Ty Liêm phóng, Kho gạo và Đồn điền Gia Sàng. Khoảng hơn 400 lính bảo an với hơn một trăm lính cơ, cảnh sát đóng ở Trại lính tây cũ, bảo vệ dinh Tỉnh trưởng, Huyện trưởng Đồng Hỷ.
2 giờ chiều 19/8/1945, tại sân vận động thị xã, diễn ra một cuộc mít tinh quần chúng đông tới hơn năm ngàn người. Đồng chí Chỉ huy trưởng Đội vũ trang tuyên truyền quyết định biến cuộc mít tinh thành cuộc biểu tình biểu dương lực lượng. Đoàn biểu tình rầm rộ kéo qua các phố, kéo theo cả trí thức, quan lại tham gia. Quân Nhật trong thị xã “án binh bất động”. Cuộc biểu dương lực lượng kết thúc khoảng 17 giờ. Ngay sau đó đội tự vệ trừ gian thị xã lùng bắt gần 40 tên tay sai thân Nhật và xử bắn tên vệ sĩ của Cung Đình Vận.
22 giờ ngày 19-8, Bộ Chỉ huy bàn xong kế hoạch tác chiến, có toán sĩ quan Mỹ của Đội Con Nai (trong đó có thiếu tá A.K Tô-Mát) tham gia ý kiến. Sở Chỉ huy đặt tại đình Hàng Phố. 5 giờ 30 phút ngày 20/8/1945, Bộ Chỉ huy Quân giải phóng gửi tối hậu thư cho Tỉnh trưởng Bùi Huy Lượng. Tiếp được tối hậu thư, Bùi Huy Lượng chần chừ không trả lời. Trước tình thế đó, một trung đội Giải phóng quân đã tấn công vào Dinh Tỉnh trưởng, nơi có một trung đội lính bảo an bảo vệ, bắt Tỉnh trưởng Bùi Huy Lượng, tên chỉ huy bảo an và toàn bộ trung đội của y. Ta buộc Bùi Huy Lượng phải trao chính quyền cho Ủy ban khởi nghĩa, đồng thời buộc tên chỉ huy bảo an ra lệnh cho tất cả binh lính đầu hàng, nộp toàn bộ vũ khí cho Quân giải phóng.
Giải quyết xong Trại bảo an, Quân giải phóng tập trung lực lượng tiến công quân Nhật trong trại lính khố xanh. Đúng 7 giờ 30 phút, các cỡ súng của Quân giải phóng nhất loạt nổ vào cứ điểm của địch. Nhiều tên Nhật trong trại phải đền tội. Cuộc đọ súng quyết liệt kéo dài 30 phút. Ta ngừng bắn để cho Tỉnh trưởng mang tối hậu thư của ta hẹn quân Nhật cử đại điện ra gặp ta để thương lượng. Cuộc đàm phán kéo dài hơn một giờ. Phía Nhật viện cớ là sẽ phải nộp vũ khí cho quân Đồng Minh, không muốn giao nộp cho ta. Thực chất là chúng muốn kéo dài thời gian để chờ viện binh từ Hà Nội lên.
![]() |
| Trụ sở Việt Nam Giải phóng quân tại Thái Nguyên sau khi giành chính quyền cách mạng, ngày 20/8/1945. Ảnh tư liệu lịch sử |
Bộ Chỉ huy Quân giải phóng đặt điều kiện cho phía Nhật nếu đến 2 giờ chiều không trả lời dứt khoát sẽ lại bị tấn công và cho phép hai phái viên của Nhật trở về trại. Đề phòng quân Nhật tráo trở, sở chỉ huy được chuyển ngay về Nhà Đèn(3) thị xã. Bọn Nhật không chấp hành tối hậu thư. 2 giờ chiều quân ta nổ súng đánh Nhật trong trại khố xanh, tiêu diệt 3 ổ đề kháng của địch ở Ty Liêm phóng, kho gạo và nhà Gô-chi-ê, diệt nhiều tên, thu toàn bộ vũ khí. Quân Nhật hoàn toàn bị vây hãm trong trại. Sau đó, sự đi lại trong thành phố tương đối an toàn.
Chiều 20/8/1945, ta tổ chức một cuộc mít tinh quần chúng tại sân vận động thị xã, đồng chí Võ Nguyên Giáp thay mặt Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc tuyên bố bãi bỏ chính quyền của Nhật và tay sai, thành lập Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh Thái Nguyên do đồng chí Lê Trung Đình làm Chủ tịch.
Về phía quân Nhật, bị quân và dân thị xã siết chặt vòng vây và tiến công chủ yếu bằng hoả lực, quân Nhật không có lương thực và thiếu nước uống nghiêm trọng. Ta vừa tiến công vừa làm công tác binh vận. Ngày 24-8 phía Nhật đề nghị gặp ta và chịu nhận một số điều kiện: Giao nộp vũ khí ở các đồn lẻ Hùng Sơn (Đại Từ), Phấn Mễ, Giang Tiên (Phú Lương), Đá Gân, Phương Độ (Phú Bình), La Hiên (Võ Nhai) cho ta. Riêng số vũ khí của lính ở thị xã chúng xin lùi lại một thời gian để xin lệnh cấp trên, chịu “án binh bất động” không can thiệp vào công việc nội bộ của nhân dân ta. Ngay sau đó, tên sĩ quan Nhật đưa đồng chí Trung Đình đến các đồn lẻ tiếp nhận vũ khí của chúng, còn lính đưa về tập trung tại thị xã. Trại Nhật vẫn bị bao vây, song chúng đã được nhân dân ta tiếp tế cho lương ăn, nước uống. Ngày 26-8, sau khi nộp lại toàn bộ vũ khí cho Quân giải phóng, quân Nhật rút về Hà Nội. Tỉnh Thái Nguyên hoàn toàn được giải phóng.
***
Những sự kiện, tiến trình giành chính quyền cách mạng được nêu trên mới chỉ là những nét khái lược, giúp ta nhìn thấy rõ hơn về tính đặc thù của nó.
Đó là khả năng lãnh đạo tài tình của Đảng và Bác Hồ, đã nắm bắt thời cơ, phát động tổng khởi nghĩa kịp thời, mau lẹ, kết hợp với sự chuẩn bị và huy động lực lượng cách mạng tham gia đông đảo, khả năng tự vũ trang - vừa đánh địch, vừa lấy vũ khí của địch để trang bị cho mình, phá kho thóc để chia cho dân nghèo và cung cấp cho lực lượng cách mạng.
Đồng thời, cũng cho thấy chiến lược đánh du kích rất tài tình và hiệu quả của ta: Xây dựng các căn cứ địa cách mạng, từ đó phát triển rộng khắp, bao vây các trung tâm đầu não của địch. Khi đã dồn địch vào thế thua, chúng ta vừa uy hiếp bằng bạo lực cách mạng, vừa đấu tranh chính trị, buộc địch phải đầu hàng, trao trả chính quyền, giảm tối đa tổn thất và giành toàn thắng.
----------
Chú thích:
(1). Tân Lợi: Tương ứng với khu vực xã Tân Quang, thành phố Sông Công cũ.
(2). Dinh Tri huyện Đồng Hỷ: Nằm tại vị trí trụ sở Viện KSND tỉnh Thái Nguyên cơ sở 2 ngày nay (tiếp nhận trụ sở của Sở Văn hóa – TT&DL từ tháng 7/2025).
(3). Nhà Đèn: Nơi đặt máy phát điện (nhà máy điện). Vị trí nằm ở gần đối diện với trụ sở Báo Thái Nguyên cũ.
----------










Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin