Là một bệnh viện tuyến tỉnh nhưng nhiều năm nay, Bệnh viện A Thái Nguyên đã thực hiện được nhiều kỹ thuật của bệnh viện tuyến Trung ương trong chẩn đoán và điều trị cho bệnh nhân. Đạt được kết quả này là do 5 năm qua, đơn vị đã tích cực phát triển nhiều kỹ thuật mới, hiện đại để nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, từ đó, góp phần giảm dần số bệnh nhân phải chuyển lên tuyến trên.
Một trong những kỹ thuật mới vừa được Bệnh viện đưa vào áp dụng trong điều trị cho bệnh nhân phải kể đến là phẫu thuật cắt Amidan bằng năng lượng laser. Đây là phương pháp mang lại nhiều ưu thế như giảm đau, mức độ xâm lấn ít, biến chứng thấp, lượng máu mất trong phẫu thuật thấp, sau phẫu thuật người bệnh ăn uống đỡ đau hơn, nhanh hồi phục, hòa nhập với cuộc sống bình thường trong thời gian sớm nhất.
Ngoài ra, Bệnh viện còn phát triển được nhiều kỹ thuật hiện đại khác như lọc máu liên tục, thay huyết tương điều trị suy đa tạng, dùng thuốc tiêu sợi huyết điều trị đột quỵ; thụ tinh trong ống nghiệm và thực hiện được tất cả các kỹ thuật cao thuộc chuyên ngành hỗ trợ sinh sản. Từ năm 2016 đến nay, chỉ riêng với thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm, tỷ lệ có thai sau chuyển phôi tại Bệnh viện đã đạt 54%. Đến nay, đã có trên 500 trẻ ra đời khỏe mạnh. Đặc biệt, Bệnh viện đã nuôi dưỡng thành công những trẻ sơ sinh nặng 600-700 gam. Theo đó, Bệnh viện còn tiến hành phẫu thuật nội soi trong phụ khoa điều trị u xơ tử cung, ung thư tử cung, nội thông tắc kẽ vòi tử cung, nội soi buồng tử cung cắt u xơ tử cung dưới niêm mạc.
Bên cạnh đó, Bệnh viện đã thực hiện rất hiệu quả các kỹ thuật, như: Tán sỏi qua da, tán sỏi niệu quản ngược dòng bằng lazer; điều trị bướu giáp bằng sóng cao tần, phẫu thuật nội soi khớp gối; thay khớp háng; nội soi tiêu hóa, phế quản can thiệp… Một số kỹ thuật như điện quang can thiệp: Nút mạch lách trong vỡ lách, nút mạch phế quản trong ho ra máu, nút mạch điều trị u gan, đổ xi măng sinh học cột sống; thực hiện các xét nghiệm huyết học, sinh hóa, vi sinh, miễn dịch nâng cao, đo tải lượng vi rút… cũng đã được Bệnh viện thực hiện hiệu quả. Ngay cả trường hợp ung thư vú giai đoạn II cũng đã được Bệnh viện thực hiện thành công. Gần đây nhất là trường hợp của bệnh nhân nữ N.T.B, 47 tuổi, có địa chỉ tại huyện Đại Từ, đã được phẫu thuật cắt toàn bộ tuyến vú phải, vét hạch nách phải (vào cuối tháng 3). Sau phẫu thuật, bệnh nhân ổn định, hậu phẫu không có biến chứng...
Ông Hà Hữu Bằng, Giám đốc Bệnh viện cho hay: Để có thể phát triển được các kỹ thuật mới, hiện đại trong chẩn đoán và điều trị, ngoài việc cân đối nguồn lực đầu tư cho máy móc, thiết bị, chúng tôi đặc biệt quan tâm tới công tác nghiên cứu khoa học và đào tạo, tập huấn, nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ.
Cụ thể, Bệnh viện luôn đẩy mạnh phong trào phát huy sáng kiến, nghiên cứu khoa học. Việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật cũng được triển khai rộng khắp tại các khoa, phòng, bộ phận, qua đó thu hút được nhiều cán bộ, y, bác sĩ tham gia thực hiện. Trong năm vừa qua, Bệnh viện có 29 đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, 15 sáng kiến cải tiến kỹ thuật được Hội đồng Khoa học Sở Y tế nghiệm thu. Cùng với đó, Bệnh viện đã thỏa thuận hợp tác trong đào tạo, phát triển khoa học công nghệ với Hàn Quốc. Hằng năm, Bệnh viện đều cử bác sĩ sang đào tạo tại nước bạn. Đặc biệt, thời gian qua, Bệnh viện luôn tạo điều kiện để cán bộ được đi đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ, chuyên khoa cấp I, II. Đến thời điểm này, Bệnh viện có 140 bác sĩ thì có 20 bác sĩ chuyên khoa cấp 2 và 45 bác sĩ chuyên khoa cấp I…
Hiện, Bệnh viện có 23 khoa, phòng chuyên môn, 8 phòng chức năng và 650 cán bộ, trong đó, lực lượng cán bộ làm công tác chuyên môn gồm 560 người. Riêng năm 2019, Bệnh viện đã khám, điều trị bệnh cho trên 192.000 lượt người; phẫu thuật gần 7.500 ca…