Trong thời gian tới, nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới (MSM) dự báo có thể trở thành nhóm chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng số người nhiễm mới HIV được ước tính hằng năm.
Nhóm nguy cơ chính của dịch HIV tại Việt Nam
Nam quan hệ tình dục đồng giới MSM đang được cảnh báo là một trong những nhóm nguy cơ chính của dịch HIV tại Việt Nam hiện nay. Tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong nhóm này tăng rõ rệt trong những năm gần đây.
Nam quan hệ tình dục đồng giới là một khái niệm để nhấn mạnh đến hành vi của những người nam có quan hệ tình dục với những người nam khác bất kể bản dạng giới (gender identity) hoặc xu hướng tính dục (sexual orientation) của người đó là gì. Cụm từ “Nam quan hệ tình dục với nam” lần đầu được sử dụng trong cộng đồng những người làm việc y tế công cộng vào những năm 1990 bởi vì hành vi này, dù ở người có xu hướng tính dục đồng tính hoặc có xu hướng tính dục khác, được phát hiện là có liên quan đến một số vấn đề y tế công cộng, nhất là với nguy cơ lây nhiễm HIV.
Lý do khiến khái niệm MSM được sử dụng rộng rãi trong dịch tễ học là do hành vi người nam có quan hệ tình dục với người nam mới là hành vi đáng quan tâm về mặt phòng ngừa và giám sát bệnh tật chứ không phải là người đó là đồng tính hay dị tính. Do vậy nên mô tả con người qua hành vi hơn là khuynh hướng tình dục của họ.
Một người MSM là người có giới tính sinh học là nam giới nhưng có thể có bản dạng giới là nam hoặc là nữ. Người nam có bản dạng giới là nữ có thể có hoặc không có biểu hiện giới là nữ, có nghĩa là có thể ăn mặc như là một người nam hoặc trang điểm, ăn mặc như một người nữ.
MSM có thể có nhiều xu hướng tính dục khác nhau như đồng tính nam (đồng tính luyến ái nam), song tính, toàn tính, dị tính hoặc vô tính. Tuy nhiên, phần lớn MSM là người xu hướng tính dục đồng giới. Bởi vì một người nam giới (có nghĩa là có giới tính sinh học là nam) nhưng có sự hấp dẫn tình dục với một người nam giới khác nên mới có hành vi tình dục với người nam.
Trong số những người đồng tính nam có người có bản dạng giới là nam và biểu hiện giới là nam nhưng cũng có người có bản dạng giới là nữ nhưng vẫn có biểu hiện giới tính là nam. Ngoài ra, còn có MSM có xu hướng tính dục là song tính hay toàn tính nghĩa là họ vẫn có tình yêu với một người nữ nhưng vẫn có tình yêu với một hoặc nhiều người nam giới khác. Những người này sẽ giao hợp với cả người nam hay nữ trong các hoàn cảnh thích hợp và sẽ có các nguy cơ bị lây nhiễm HIV và các bệnh lây truyền đường tình dục tương tự như các người MSM đồng tính.
Trong nhóm MSM vẫn có người nam dị tính, có thể chỉ yêu, có tình cảm và thu hút tình dục với người nữ nhưng vẫn có thể có quan hệ tình dục với một người nam khác do bị ép buộc, do bán dâm hay tò mò. Thậm chí, trong nhóm MSM có những người nam vô tính luyến ái nghĩa là không thích cả nam giới và nữ giới nhưng vẫn có thể có quan hệ tình dục với người nam khác do áp lực của nhóm hoặc do lao động tình dục.
MSM đang được cảnh báo là một trong những nhóm nguy cơ chính của dịch HIV tại Việt Nam hiện nay. Tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong nhóm này tăng rõ rệt trong những năm gần đây. Giám sát trọng điểm năm 2018 chỉ ra tỷ lệ hiện nhiễm trong nhóm này là 10,8% tăng nhanh so với năm 2011 chỉ là 2,9%. Tỷ lệ nhiễm mới HIV cao trong nhóm MSM cũng tăng lên từng năm. Một số địa phương người nhiễm HIV mới được phát hiện có tới hơn 50% là nhóm MSM và MSM được dự báo có thể trở thành nhóm chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng số người nhiễm mới HIV được ước tính hàng năm trong thời gian tới.
Nguyên nhân gia tăng HIV trong nhóm MSM
Theo các nhà chuyên môn nghiên cứu về hành vi của nhóm MSM đã chỉ ra một số nguyên nhân cơ bản sau: Hành vi tình dục của người nam có quan hệ tình dục với nam chủ yếu qua đường hậu môn; hành vi tình dục của MSM có thể rất đa dạng, bao gồm quan hệ tình dục qua đường miệng, đường hậu môn và thủ dâm cho nhau.
Theo truyền thống, quan hệ tình dục của người MSM và đồng tính nam là giao hợp qua hậu môn. Để giúp cho việc giao hợp qua hậu môn dễ dàng và ít chấn thương hơn, các cặp bạn tình có thể sử dụng chất bôi trơn. Một số người ở vai trò bottom sử dụng các hợp chất nitrite (như amyl nitrite với tên lóng là popper) để giãn cơ vòng hậu môn để giao hợp dễ dàng hơn. Ngoài ra popper còn làm tăng cảm giác ham muốn và khoái cảm. Người ở vai trò top cũng có thể dùng popper để tạo cảm giác phê và tăng ham muốn nhưng ít sử dụng hơn do popper làm giảm khả năng cương cứng.
Quan hệ tình dục qua hậu môn, nếu không áp dụng biện pháp bảo vệ, làm tăng nguy cơ nhiễm một số bệnh lây truyền qua tình dục như nhiễm HIV, chlamydia, lậu, herpes…, bệnh qua đường máu như viêm gan C, viêm gan B và nguy cơ ung thư hậu môn trực tràng do nhiễm virus u nhú người (HPV) và nhiều bệnh truyền nhiễm khác như viêm gan A, thương hàn, salmonella, shigella, amip, E. coli…
Nguy cơ lây nhiễm HIV qua giao hợp qua đường hậu môn cao hơn so với giao hợp qua âm đạo. Nguyên nhân là do niêm mạc ở trực tràng dễ bị tổn thương và dễ bị virus xâm nhập hơn so với niêm mạc âm đạo.
Những người có quan hệ tình dục linh hoạt là động lực rất quan trọng lây truyền HIV ở cộng đồng MSM. Khi đóng vai trò bot, những người này lại có nguy cơ bị nhiễm HIV cao và khi bị nhiễm HIV thì ở vị trí top, những người này lại là nguồn lây HIV cho những người khác.
Trong quan hệ tình dục qua hậu môn, ngoài cách thức đưa dương vật vào hậu môn còn có những hình thức khác như đưa ngón tay (hoặc nắm tay) vào hậu môn, đưa đồ chơi tình dục vào hậu môn, quan hệ tình dục miệng-hậu môn. Các hình thức quan hệ này đều có thể tạo nguy cơ các bệnh truyền nhiễm và nguy cơ thương tổn.
Ở Việt Nam, theo một khảo sát trên Internet do iSEE tiến hành trên 1.453 MSM vào năm 2009, có 83,4% có quan hệ tình dục trong 6 tháng gần nhất (75,8% từng quan hệ tình dục chỉ với nam và 7,6% cũng từng quan hệ với nữ). Trong nhóm những người có quan hệ trong 6 tháng gần đây, 48% có nhiều hơn một bạn tình nam và 72,1% có quan hệ hậu môn. Trong số nhóm có quan hệ hậu môn đó, 40% không dùng bao cao su trong lần quan hệ hậu môn gần nhất.
Các hình thức quan hệ tình dục khác: Các hình thức quan hệ tình dục của MSM bao gồm tình dục qua miệng, cọ dương vật vào nhau, hay thủ dâm lẫn nhau. Những hình thức này có thể có nguy cơ lây nhiễm HIV thấp khi quan hệ tình dục theo đường hậu môn.
Số lượng bạn tình MSM thay đổi theo thời gian
Số lượng bạn tình của MSM thay đổi theo từng cá nhân và trung bình số lượng bạn tình của MSM thay đổi theo thời gian. Ở Hoa Kỳ vào thời điểm bắt đầu dịch HIV thì trung bình số lượng bạn tình của người MSM là cao hơn so với hiện tại; số lượng bạn tình cũng còn tùy thuộc theo địa phương và đặc thù của quần thể MSM.
Nhìn chung các báo cáo tại Hoa Kỳ cho thấy MSM có số bạn tình đồng thời cao hơn và tỉ lệ có quan hệ tình dục không bảo vệ cao hơn so với nhóm chỉ quan hệ tình dục khác giới. Ở những khu vực đô thị lớn, nhiều MSM chấp nhận việc có nhiều người bạn tình đồng thời. Ở một số quốc gia có những quán bar dành cho người đồng tính nam, hiệu sách dành cho người đồng tính nam, rạp hát, các khu nghỉ dưỡng, các lễ hội âm nhạc cho cộng đồng đồng tính. Đây là nơi các MSM có thể tham gia các hoạt động tình dục với nhiều bạn tình.
Tỉ lệ sử dụng chất liên quan đến tình dục thường xảy ra ở nam nhiều hơn nữ. Các chất thường sử dụng như cần sa, methamphetamine, popper hay viagra và thường xảy ra ở người nam đồng tính hơn người nam dị tính như GHB, ketamine và các chất kích thích như methamphetamine, mephedrone, MDMA, cocaine, popper và viagra.
Sở dĩ ở MSM tỉ lệ sử dụng chất cao là do quan hệ tình dục ở nhóm này có nhiều rào cản và những người MSM muốn sử dụng chất để vượt qua các rào cản và có cảm nhận khác biệt. Những rào cản có thể là rào cản về tâm lí (như tự cảm thấy khởi đầu quan hệ tình dục đồng giới có vẻ khó khăn hơn quan hệ tình dục khác giới); về xã hội (hai người có quan hệ tình dục đồng giới cảm thấy mình có thể bị kì thị về hành vi này); về thể chất (giao hợp qua hậu môn có thể bị đau hơn so với quan hệ qua âm đạo, đòi hỏi dương vật phải cương cứng hơn).
MSM cũng muốn thực hành những hành vi khác biệt và mong muốn có những cảm xúc đặc biệt nên dễ dàng bị lôi kéo vào sử dụng chất, kể cả chất có tính chất hướng thần và không hướng thần.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng ở đâu có tỉ lệ Các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STD) cao ở đó có sự gia tăng HIV/AIDS. Ngược lại vùng nào can thiệp, phòng chống STD tốt, tỉ lệ nhiễm HIV sẽ rất thấp. Nghiên cứu ở một vùng của Tanzania cho thấy điều trị giảm tỉ lệ STD trong cộng đồng đã giảm được 38% tỉ lệ nhiễm HIV/AIDS trong một thời gian ngắn. Như vậy, STD vừa là bạn đồng hành, vừa là yếu tố nguy cơ, vừa là yếu tố chỉ điểm của HIV/AIDS. Hay nói cách khác cả STD và HIV/AIDS đều có chung các yếu tố nguy cơ cao là quan hệ tình dục không an toàn, quan hệ tình dục với nhiều người.