Những tiến bộ khoa học mới hứa hẹn chấm dứt HIV/AIDS trong tương lai

Theo Tiengchuong.vn 13:39, 12/08/2024

Những tiến bộ trong công nghệ, khoa học, đặc biệt là hướng đi mới trong xét nghiệm, phương pháp điều trị và phòng ngừa HIV không chỉ để kiểm soát, ngăn ngừa lây nhiễm mà còn tiến tới mục tiêu chấm dứt đại dịch HIV/AIDS.

Tư vấn điều trị dự phòng lây nhiễm HIV cho bệnh nhân. Ảnh: VGP/Thùy Chi

Tăng cường đầu tư nguồn lực và bảo vệ nhân quyền

Theo báo cáo của Chương trình phòng chống HIV/AIDS của Liên Hợp Quốc (UNAIDS), để đạt được mục tiêu chấm dứt dại dịch AIDS vào năm 2030, các nhà lãnh đạo cần tăng cường đầu tư nguồn lực và bảo đảm quyền con người.

Việc cắt giảm nguồn lực và sự gia tăng của các luật lệ chống quyền con người đã làm chậm tiến trình phòng chống HIV/AIDS, đặt hàng triệu người vào nguy cơ cao hơn. Bên cạnh đó, bất bình đẳng giới đang làm trầm trọng thêm những rủi ro mà trẻ em gái và phụ nữ phải đối mặt và thúc đẩy đại dịch. Tỉ lệ nhiễm HIV ở trẻ em gái vị thành niên và phụ nữ trẻ vẫn cực kỳ cao ở một số vùng của châu Phi.

Ngoài ra, sự kỳ thị và phân biệt đối xử với các cộng đồng thiểu số đã tạo ra rào cản đối với các dịch vụ phòng ngừa và điều trị quan trọng, dẫn đến các nhóm dân số chính, bao gồm gái mại dâm, nam quan hệ tình dục đồng giới và người tiêm chích ma túy, chiếm tỉ lệ gia tăng (55%) trong các ca nhiễm mới trên toàn cầu so với năm 2010 (45%).

Báo cáo chứng minh rằng các dịch vụ phòng ngừa và điều trị HIV chỉ có thể đến được với mọi người nếu quyền con người được bảo vệ, nếu các luật bất công chống lại phụ nữ và các cộng đồng thiểu số bị xóa bỏ, và tình trạng phân biệt đối xử và bạo lực được giải quyết triệt để.

Các quyết định và lựa chọn chính sách mà các nhà lãnh đạo thế giới đưa ra sẽ quyết định số phận của hàng triệu sinh mạng, quyết định liệu đại dịch HIV/AIDS có chấm dứt vào năm 2030 được hay không.

Mở rộng việc sử dụng xét nghiệm bằng nhiều hình thức đa dạng

Để phát hiện ca nhiễm mới HIV, Tổ chức y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo tối ưu hóa dịch vụ xét nghiệm HIV. Tại Hội nghị quốc tế IAS lần thứ 12 về khoa học HIV, WHO kêu gọi các quốc gia mở rộng việc sử dụng xét nghiệm "Tự xét nghiệm HIV" (HIVST), cung cấp HIVST để bắt đầu liệu pháp dự phòng trước phơi nhiễm (PrEP) và thúc đẩy xét nghiệm thông qua mạng lưới mạng xã hội, để tăng phạm vi xét nghiệm và tăng cường tiếp nhận các dịch vụ phòng ngừa và điều trị HIV cho dân số nói chung, ở những nơi có gánh nặng cao và ở những nhóm dân số, khu vực có khoảng cách xa.

Việc tự chăm sóc và tự xét nghiệm ngày càng được công nhận là những cách để tăng khả năng tiếp cận, hiệu quả, hiệu suất và khả năng chấp nhận của dịch vụ chăm sóc sức khỏe trên nhiều lĩnh vực bệnh tật khác nhau, bao gồm cả HIV.

Mặc dù xét nghiệm HIV được cung cấp thường xuyên tại một số cơ sở lâm sàng như dịch vụ trước khi sinh, trước mổ nhưng vẫn có nhiều cơ hội xét nghiệm bị bỏ lỡ đối với những người đến các cơ sở y tế.

Tính đến năm 2022, ước tính có 5,5 triệu người nhiễm HIV vẫn không biết tình trạng HIV của mình. Việc cung cấp dịch vụ tự xét nghiệm HIV tại các cơ sở có thể tăng lượng xét nghiệm và cải thiện hiệu quả cung cấp dịch vụ, đặc biệt ở những nơi thiếu nhân viên y tế và không dễ dàng có được dịch vụ xét nghiệm HIV.

Một phân tích tổng hợp gần đây đã chỉ ra rằng, việc sử dụng mạng xã hội để phát hiện các ca nhiễm mới là một phương pháp hiệu quả về chi phí. Việc sử dụng các mạng xã hội không chỉ giúp tìm ra những trường hợp nhiễm mới mà còn giúp xác định những người có nguy cơ cao và khuyến khích họ đi xét nghiệm.

WHO hiện khuyến cáo các quốc gia tăng cường sử dụng những phương pháp xét nghiệm dựa trên mạng xã hội để tăng cường hiệu quả của công tác phòng, chống HIV/AIDS.

Xét nghiệm HIV dựa trên mạng lưới xã hội là một phương pháp để thu hút các đối tác tình dục, tiêm chích ma túy và các mối quan hệ xã hội của những người nhiễm HIV, những người âm tính với HIV và có nguy cơ... vào các dịch vụ xét nghiệm tự nguyện.

Phương pháp này bao gồm cung cấp thông tin về các dịch vụ xét nghiệm hoặc cung cấp cách thức liên hệ các xét nghiệm tự thân.

Tại Việt Nam, Cục Phòng, chống HIV/AIDS (Bộ Y tế) đã và đang tổ chức cung cấp sinh phẩm tự xét nghiệm HIV online qua website http://tuxetnghiem.vn tại 35 tỉnh, thành phố để những người có hành vi nguy cơ nhiễm HIV tự làm xét nghiệm HIV và được kết nối làm xét nghiệm khẳng định bị nhiễm HIV.

Bên cạnh đó, Cục Phòng chống HIV/AIDS triển khai mô hình xét nghiệm HIV cho bạn tình, bạn chích của người nhiễm HIV bằng cách tư vấn cho người nhiễm HIV, cung cấp sinh phẩm tự xét nghiệm HIV để làm xét nghiệm cho bạn tình, bạn chích của họ hoặc người nhiễm HIV thông báo và vận động bạn tình, bạn chích chung của họ và người có hành vi nguy cơ cao trong mạng lưới xã hội của họ đến cơ sở y tế làm xét nghiệm HIV.

Đại diện Cục Phòng, chống HIV/AIDS cho biết, hiện Cục đang tích cực cùng với các tỉnh, thành phố, tổ chức, cá nhân và cộng đồng thực hiện mục tiêu 95-95-95. Trong đó, 95 đầu tiên là 95% người nhiễm HIV biết kết quả xét nghiệm HIV của mình, đến hiện tại tỉ lệ này đang đạt 86%, để tiếp cận và xét nghiệm HIV cho khoảng 10% người nhiễm HIV là vô cùng khó khăn do người có hành vi nguy cơ thường ngại tiếp cận và xét nghiệm HIV theo các mô hình truyền thống. Điển hình như xét nghiệm HIV tại cơ sở y tế hay xét nghiệm HIV lưu động không tiếp cận được đúng nhóm khách hàng đích... Chính vì vậy, các mô hình tư vấn xét nghiệm HIV đa dạng được triển khai bao gồm: Xét nghiệm trong cơ sở y tế, xét nghiệm HIV dựa vào tổ chức cộng đồng, các bạn trong cộng đồng MSM, người nghiện ma túy, người bán dâm tham gia cung cấp dịch vụ tư vấn, xét nghiệm HIV và hỗ trợ kết nối điều trị ARV.

Số liệu thống kê cho thấy, riêng trong năm 2023, cả nước triển khai tư vấn xét nghiệm cho khoảng hơn 2,1 triệu lượt người, trong đó số lượt xét nghiệm có kết quả dương tính với HIV/AIDS khoảng 16.000 trường hợp; điều trị thuốc kháng virus (ARV) cho trên 175.000 bệnh nhân, trong đó có 3.061 trẻ em…

Với xu hướng dịch và hình thái lây nhiễm như hiện nay, cảnh báo dịch HIV sẽ ngày càng trở nên khó kiểm soát. Xét nghiệm HIV là cách duy nhất để biết một người có bị nhiễm HIV hay không, giúp người nhiễm sớm biết được tình trạng nhiễm HIV của bản thân, nhằm dự phòng lây nhiễm cho người thân, những người xung quanh, cho cộng đồng.

Xét nghiệm HIV cũng là cơ sở để có các biện pháp can thiệp khác nhằm tránh nguy cơ lây nhiễm cho bản thân như điều trị dự phòng trước phơi nhiễm HIV (PrEP), công tác điều trị HIV/AIDS.

Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật công nghệ ngày nay việc xét nghiệm HIV đã đơn giản rất nhiều và cho kết quả chính xác. Người dân có thể nhận được bộ kít và xét nghiệm theo hướng dẫn. Sinh phẩm tự xét nghiệm trực tuyến sẽ mở ra một kênh mới lan tỏa dịch vụ xét nghiệm HIV đến cộng đồng để họ chủ động kiểm soát sức khỏe của mình và người thân trong thời gian tới.

Công cụ "thần kỳ" trong phòng ngừa HIV

Chương trình điều trị dự phòng trước phơi nhiễm HIV (PrEP và K=K) được Việt Nam triển khai nhằm hướng tới mục tiêu chấm dứt đại dịch HIV vào năm 2030. Với những nỗ lực và kết quả triển khai trong thời gian qua, Việt Nam dẫn đầu châu Á-Thái Bình Dương về PrEP và K=K.

Điều trị PrEP là thành tựu rất ấn tượng trong điều trị dự phòng trước phơi nhiễm bằng các phác đồ thuốc kháng virus, điều này được ví như công cụ "thần kỳ" phòng ngừa HIV.

theo PGS, TS Phan Thị Thu Hương, để có được kết quả này, Việt Nam đã triển khai chiến lược sử dụng thuốc dự phòng trước phơi nhiễm (PrEP) cho 65 nghìn người (năm 2023). Duy trì hơn 70% người dùng PrEP trong ba tháng. Bên cạnh đó, triển khai PrEP với nhiều mô hình linh hoạt, đa dạng để đáp ứng nhu cầu của nhiều đối tượng khác nhau. Mô hình Phòng khám toàn diện và thân thiện OSS cũng được triển khai và mở rộng mang lại dịch vụ phòng ngừa toàn diện cho người sử dụng PrEP.

Theo báo cáo Bộ Y tế, cả nước hiện có khoảng 250 nghìn người đang sống chung với HIV. Tính tới tháng 9/2023, đã có 100% số tỉnh, thành phố; 100% số quận, huyện và hơn 99,98% số xã, phường báo cáo có người nhiễm HIV/AIDS. Năm 2023 cả nước ghi nhận 10.219 trường hợp phát hiện mới HIV dương tính, 1.126 trường hợp tử vong.

Trong số người mới phát hiện nhiễm HIV có 84,5% là nam giới, độ tuổi chủ yếu là từ 16 đến 29 (47,3%) và 30 đến 39 (28,2%); đường lây chủ yếu là quan hệ tình dục không an toàn (75,1%). Đáng chú ý, đối tượng chủ yếu là nam quan hệ tình dục đồng giới (49,2%)... Qua phân tích số liệu cho thấy, hình thái lây nhiễm HIV có sự thay đổi rõ rệt. Trong số những người nhiễm HIV mới phát hiện, tỷ lệ người nhiễm HIV qua đường máu giảm từ 47,5% (năm 2010) xuống còn 6,4% (tháng 9/2023)...

Theo các chuyên gia, việc tiếp tục theo đuổi các lựa chọn phòng ngừa không dựa trên thuốc kháng virus khác bao gồm cả việc sử dụng thụ động các kháng thể trung hòa rộng rãi đặc hiệu với HIV (bnAbs) và vaccine là điều rất quan trọng.

Hiện các nhà nghiên cứu đang tập trung vào việc phát triển các phương pháp phòng chống HIV không dựa trên thuốc kháng virus. Các kháng thể đặc hiệu và vaccine đang được xem xét là những phương pháp tiềm năng.

Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc kết hợp ba loại kháng thể VRC07-523LS, PGT121LS và PGDM1400LS, tất cả đều được thiết kế để có thời gian bán hủy kéo dài, hiện đang được nghiên cứu trong một loạt các thử nghiệm giai đoạn 1 do mạng lưới thử nghiệm vaccine HIV, IAVI, Viện Dị ứng và Bệnh truyền nhiễm Quốc gia (NIAID) và các tổ chức khác tiến hành.

Sự kết hợp ba bnAbs này sẽ cung cấp khả năng bảo vệ chống lại hơn 90% các biến thể virus đang lưu hành hiện nay, theo bài thuyết trình của Dan Barouch trong một phiên họp vệ tinh tại AIDS 2024. Điều này cho thấy khả năng rất lớn trong việc phòng chống HIV bằng cách sử dụng các kháng thể.

Đặc biệt các nhà nghiên cứu ngày càng cân nhắc cách sử dụng thụ động bnAbs để bảo vệ trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ khỏi bị nhiễm HIV trong quá trình chuyển dạ và sinh nở hoặc trong thời kỳ cho con bú.

Một chiến lược phòng ngừa không dựa trên thuốc kháng virus khác đó chính là vaccine HIV. Liệu chúng ta có cần vaccine phòng HIV hay không khi đã có những tiến bộ trong liệu pháp kháng virus và thuốc phòng ngừa phơi nhiễm HIV (PrEP).

Chương trình phòng chống HIV/AIDS của Liên Hợp Quốc (UNAIDS) khẳng định và cam kết 100% vào việc phát triển vaccine, tổ chức khẳng định rằng: "Bất kỳ hy vọng nào để loại bỏ HIV cũng đều phải liên quan đến vaccine. Chúng ta sẽ không đạt được điều đó chỉ bằng các biện pháp can thiệp dựa trên thuốc kháng virus". Bởi vaccine HIV có khả năng giải quyết được mối lo ngại về chi phí và cải thiện khả năng tiếp cận, đặc biệt là đối với những người ít có khả năng tiếp cận các cơ sở chăm sóc sức khỏe truyền thống.