Dưới sự lãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, trong những năm 1930-1945, các đội quân tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam đã hình thành. Các đội quân ấy tuy vũ khí trang bị thô sơ, song đã có vai trò rất quan trọng cùng với các đội du kích, tự vệ chiến đấu làm nòng cốt cho quần chúng nhân dân trong các cuộc đấu tranh chống quân thù.
![]() |
| Lễ thành lập Trung đội Cứu quốc quân II tại rừng Khuôn Mánh. Ảnh: Tư liệu |
Thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Qua nhiều cơ duyên, tôi may mắn được tiếp cận nhiều nhân vật cũng như tài liệu lịch sử về Cách mạng Tháng Tám. Đó là cuốn ghi chép tới 80 trang kín chữ, nội dung là những mảnh ghép của cán bộ tiền khởi nghĩa, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính Khu tự trị Việt Bắc Lê Thị Ngọc (Đàm Thị Kiều). Hay những lần gặp gỡ phỏng vấn lão thành cách mạng Lê Dục Tôn, Võ Quốc Vinh, Nông Văn Lạc, Kim Sơn, Bàn Tiến Minh, Doanh Hằng… đã cho tôi những tư liệu quý của người trong cuộc, trong đó có những năm tháng tiền khởi nghĩa hào hùng của cách mạng Việt Nam.
Trước khi Cách mạng Tháng Tám thành công, chúng ta đã có những năm tháng vận động, phát triển lực lượng khá mạnh ở Việt Bắc, ở Thái Nguyên…Trước tình hình thế giới và trong nước biến chuyển nhanh chóng, với tầm nhìn xa, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc xác định Cao Bằng là nơi hội tụ các yếu tố: “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa” để xây dựng căn cứ địa cách mạng đầu tiên của cả nước.
Ngày 28/1/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về Pác Bó (xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng) trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Bà Lê Thị Ngọc (sau này là Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính Khu tự trị Việt Bắc) từng kể: Mới 15 tuổi, nhà lại gần “Lô cốt đỏ” trên núi Lam Sơn (Hòa An - Cao Bằng), giỏi tiếng Kinh nên được tham gia Hội Nhi đồng cứu quốc và làm liên lạc.
Giai đoạn 1941 đến 1945, bà làm liên lạc, đưa đón khách, dạy chữ quốc ngữ, chuyển tin, bài cho Báo Việt Nam Độc Lập. Từ ngày 10 đến 19/5/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8. Hội nghị đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược đối với cách mạng Việt Nam: Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu; thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh; khẳng định “Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang”.
Cũng từ cuối năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ thực tế hoạt động vũ trang ở Bắc Sơn - Võ Nhai đã chỉ đạo các đồng chí: Lê Quảng Ba, Lê Thiết Hùng, Hoàng Sâm… mở một lớp quân sự tập trung đầu tiên tại Pác Bó (Hà Quảng) do Người trực tiếp đề ra kế hoạch huấn luyện và giảng dạy.
Đến đầu năm 1943, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cấp tốc tổ chức con đường quần chúng từ Cao Bằng qua Ngân Sơn, Chợ Rã (tỉnh Bắc Kạn) đi về Thái Nguyên và về miền xuôi. Chỉ trong một thời gian ngắn, Ban xung phong Nam Tiến đã tổ chức được 19 đội xung phong tuyên truyền Nam Tiến nhằm khai thông xuống các tỉnh: Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang…
Thế rồi, sự kiện vĩ đại của cách mạng Việt Nam cũng đến, đó là ngày 22/12/1944, tại khu rừng Trần Hưng Đạo, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân gồm 34 chiến sĩ được thành lập, do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy.
Cứu quốc quân II dưới rừng Khuôn Mánh
Trở lại câu chuyện về các đơn vị vũ trang được thành lập từ Thái Nguyên. Ngay giữa vòng vây uy hiếp của quân thù, ngày 15/9/1941, Trung đội Cứu quốc quân II được thành lập tại rừng Khuôn Mánh, thôn Ngọc Mỹ, xã Tràng Xá (Võ Nhai). Đồng chí Hoàng Quốc Việt đã thay mặt Trung ương Đảng công nhận Cứu quốc quân II là đội quân cách mạng.
Toàn đội có 47 người (trong đó có 3 nữ) được chia làm 5 tiểu đội, có chi bộ Đảng lãnh đạo do đồng chí Chu Văn Tấn, xứ ủy viên, làm Bí thư Chi bộ và trực tiếp chỉ huy. Tất cả các chiến sĩ đều là đội viên tự vệ được chọn trong phong trào đấu tranh ở địa phương kể từ năm 1940. Hầu hết cán bộ và đảng viên của Chi bộ Võ Nhai đều vào Cứu quốc quân.
Sự ra đời của Cứu quốc quân II nói lên tinh thần quật cường, bất khuất của nhân dân Thái Nguyên, đồng thời cũng chỉ ra rằng, trước kẻ thù mạnh gấp trăm nghìn lần, một đội quân cách mạng mới ra đời, mặc dù còn rất nhỏ bé vẫn có thể tồn tại và phát triển khi có Đảng lãnh đạo và có phong trào quần chúng làm cơ sở.
Nhờ được giáo dục đường lối, chính sách của Đảng, không ngừng nâng cao lòng yêu nước, lòng căm thù giặc, tăng cường đoàn kết nội bộ, Cứu quốc quân đã có một sức mạnh to lớn để vượt qua khó khăn thử thách, hoàn thành nhiệm vụ. Cựu Đại tá Kim Sơn (nguyên đội viên Trung đội Giải phóng quân Phạm Hồng Thái), giữa tháng 7 vừa qua, dù ngót trăm tuổi, ông vẫn minh mẫn kể lại: Từ những năm 1940, phong trào cách mạng đã phát triển sang một giai đoạn mới.
Ngày 15/9/1941, Trung đội Cứu quốc quân II được thành lập tại rừng Khuôn Mánh, Tràng Xá (Võ Nhai), ngay sau đó đã lập nhiều chiến công và lớn mạnh rất nhanh. Còn Trung đội Giải phóng quân Phạm Hồng Thái hoạt động ở vùng Tam Đảo từ năm 1940.
Đến năm 1943 thì thành lập Đội tự vệ Tam Đảo. Tháng 8-1944, Đội đã có hơn chục chiến sĩ, riêng nhà ông Kim Sơn có 6 người. Tìm trong sử liệu, chúng tôi thấy có đoạn: Theo chỉ đạo của Trung ương, của đồng chí Võ Nguyên Giáp, Chỉ huy Đội Cứu quốc quân II Chu Văn Tấn đã về Tam Đảo kiểm tra hoạt động và công nhận Đội tự vệ Tam Đảo, Quân Chu là tổ chức cách mạng.
Tháng 4-1945, đồng chí Chu Văn Tấn, Ngô Nhị Quý (Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên đầu tiên) và Lê Trung Đình (Chủ tịch Chính quyền cách mạng Thái Nguyên sau này) về đây, sáp nhập thêm các đội tự vệ nhỏ lẻ thành lập Đội du kích Cao Sơn, sau đổi thành Trung đội Giải phóng quân Phạm Hồng Thái, đồng chí Nguyễn Huy Minh (Thạch Sơn) làm Trung đội trưởng và Vũ Tuân làm Chính trị viên…
Sau thành lập, trung đội ghi danh ở một số trận đáng nhớ. Đó là trận trung đội vượt núi sang bên sườn Tây Tam Đảo vây đánh đồn Nhật, giải phóng hàng trăm tù thường phạm, tù chính trị người Việt và người Pháp. Rồi trận tràn xuống phát động nhân dân các xã nổi dậy phá kho thóc của Nhật ở xóm Tràng Dương, xã Vạn Thọ, cung cấp lương thực cho bộ đội, dân nghèo.
Những ngày giữa tháng Tám năm 1945, Trung đội xuống núi, hợp quân, giải phóng cả một vùng Nam Thái Nguyên, góp phần vào cuộc khởi nghĩa và thành lập chính quyền cách mạng tỉnh Thái Nguyên chiều 20/8/1945.
(Còn nữa)








Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin