Tự do tín ngưỡng, tôn giáo luôn là vấn đề mà các thế lực thiếu thiện chí, thù địch với chế độ ta lợi dụng để chống phá cách mạng Việt Nam. Nhưng chính thực tiễn sinh động về tự do tín ngưỡng, tôn giáo trên đất nước ta đã bác bỏ mọi cáo buộc của họ.
"Bàn thờ tôn giáo có nhiều nhưng bàn thờ Tổ quốc có một”
Đó là phát biểu của một chức sắc tôn giáo với lãnh đạo Đảng, Nhà nước để khẳng định các tôn giáo ở Việt Nam luôn gắn bó, đồng hành cùng dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, thời gian qua, các thế lực thiếu thiện chí, có thâm thù với chế độ ta và một số tổ chức nước ngoài vẫn có cái nhìn sai lệch về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam. Gần đây, báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ về tình hình tôn giáo thế giới năm 2020, trong đó có phần nhận xét về Việt Nam, đã cho rằng, chính quyền Việt Nam tiếp tục thông qua các điều luật, quy định “không rõ ràng để kiểm soát, hạn chế tự do tôn giáo”.
Nhận định trên là không có cơ sở. Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo với 95% dân số có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, hơn 26,5 triệu tín đồ các tôn giáo (chiếm 27% dân số), hơn 58.000 chức sắc, 148.000 chức việc, 29.000 cơ sở thờ tự, 53 cơ sở đào tạo tôn giáo. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người. Các quyền này được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 và Nghị định số 162/2017/NĐ-CP của Chính phủ, đã tạo khuôn khổ pháp lý vững chắc cho việc bảo đảm tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Không chỉ là quốc gia đa tôn giáo, Việt Nam còn là quốc gia đa dân tộc (với 54 dân tộc cùng sinh sống), mỗi dân tộc đều lưu giữ những hình thức tín ngưỡng khác nhau với rất nhiều lễ hội truyền thống dân gian, tạo nên sự đa dạng trong đời sống tâm linh liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo của người Việt. Hằng năm, cả nước có hàng nghìn lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo được tổ chức. Các tổ chức tôn giáo được phép thành lập trường đào tạo, mở lớp bồi dưỡng những người chuyên hoạt động tôn giáo để đáp ứng nhu cầu của tôn giáo. Hiện nay, ở Việt Nam có 53 cơ sở đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo; trong đó, một số cơ sở được phép đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ...
Không chỉ có thế, Việt Nam còn quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi để hoạt động quan hệ quốc tế của các tổ chức tôn giáo ngày càng được mở rộng. Hằng năm, có hàng trăm đoàn của tổ chức, cá nhân tôn giáo ở trong nước tham gia hoạt động tôn giáo ở nước ngoài; nhiều chức sắc nước ngoài vào Việt Nam hoạt động tôn giáo. Nhiều hoạt động tôn giáo quốc tế lớn được tổ chức thành công ở Việt Nam...
Các quyền tự do tôn giáo ngày càng được bảo đảm tốt hơn
Những đối tượng thiếu thiện chí, thù hằn với chế độ ta cho rằng, chính quyền Việt Nam “gây khó khăn” với các hội, nhóm tôn giáo ở vùng sâu, vùng xa hoặc vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Sự thật không phải vậy. Đồng bào các dân tộc thiểu số là một bộ phận quan trọng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Cho nên, mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều hướng vào phục vụ các tầng lớp nhân dân.
Vì thế, cũng như dân tộc Kinh, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của các dân tộc thiểu số được bảo đảm. Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã xây dựng Học viện Phật giáo Nam tông Khmer tại thành phố Cần Thơ để đáp ứng nhu cầu đào tạo tu sĩ Phật giáo Nam tông Khmer. Kinh sách của các tổ chức tôn giáo đã được phép xuất bản bằng 13 thứ tiếng dân tộc…
Chưa dừng lại ở đó, một số luận điệu còn cáo buộc vô lối các cấp chính quyền “duy trì quy trình đăng ký, công nhận không đúng với quy định” nhằm làm chậm, không chấp nhận, cấm các hoạt động tôn giáo của các hội, nhóm tôn giáo; “gây khó khăn” với các hội, nhóm tôn giáo ở vùng sâu, vùng xa hoặc vùng các dân tộc thiểu số khi đăng ký hoạt động. Điều đó cũng hoàn toàn sai, bởi thời gian qua, Ban Tôn giáo Chính phủ đã áp dụng nhiều điểm mới trong quy trình thủ tục đăng ký, công nhận tổ chức tín ngưỡng, tôn giáo; cụ thể là đã triển khai thực hiện, xử lý, giải quyết 43 thủ tục hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo trên cổng Dịch vụ công trực tuyến mức độ 4, bảo đảm nhanh gọn, hiệu quả, giảm thời gian đi lại cho các chức sắc, chức việc các tôn giáo, được các tổ chức, cá nhân tôn giáo hài lòng và đánh giá cao.
Hiện, có 62 tổ chức và cá nhân đã tạo tài khoản và thực hiện dịch vụ công trực tuyến trên hệ thống phần mềm dịch vụ công trực tuyến của Ban Tôn giáo Chính phủ. Đến năm 2020, Việt Nam đã có 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được Nhà nước công nhận và cấp đăng ký hoạt động, tăng 10 tôn giáo và 28 tổ chức so với trước khi thực hiện Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo (trong đó, có 36 tổ chức tôn giáo được công nhận; 4 tổ chức tôn giáo và 1 pháp môn được cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo).
Một luận điệu khác cũng được các thế lực thù địch, cơ hội chính trị xuyên tạc là chính quyền Việt Nam có biện pháp cứng rắn nhằm “đàn áp, hạn chế” tự do ngôn luận trong tôn giáo và đòi dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo.
Thực ra đó chỉ là ý kiến quy chụp ác ý, vì họ có thể không biết hay cố tình không hiểu một thực tế sinh động là nhiều năm qua, các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam được tạo điều kiện in ấn, phát hành kinh sách, đồ dùng việc đạo phục vụ hoạt động tôn giáo. Từ năm 2013 đến nay, đã có gần 6.000 xuất bản phẩm tôn giáo được xuất bản, hơn 19 triệu bản in; nhiều xuất bản phẩm được in bằng nhiều ngôn ngữ: Anh, Pháp, tiếng dân tộc thiểu số. Hiện, có 15 tờ báo, tạp chí của các tổ chức tôn giáo đang hoạt động; phần lớn các tổ chức tôn giáo (kể cả tổ chức tôn giáo trực thuộc) có website riêng…
Như vậy, thông qua những bằng chứng thực tiễn sinh động về tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam đã bác bỏ mọi nhận xét thiếu khách quan về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta. Thực tiễn đó cũng là cơ sở để đồng bào tôn giáo củng cố niềm tin vào đường lối, chính sách nhân văn của Đảng và Nhà nước ta về tự do tín ngưỡng, tôn giáo.