Trải qua 35 năm xây dựng và phát triển, Công ty Than Núi Hồng - VVMI (Tổng Công ty Công nghiệp mỏ Việt Bắc - Vinacomin) đã nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, thử thách, tổ chức bốc xúc gần 18 triệu mét khối đất đá; khai thác trên 8,8 triệu tấn than; nộp ngân sách Nhà nước gần 460 tỷ đồng; bảo đảm việc làm và thu nhập ổn định cho trên 900 lao động… Công ty luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.
Công ty Than Núi Hồng được thành lập ngày 1-8-1980. Quá trình 35 năm xây dựng và phát triển của Công ty có thể khái quát thành 4 giai đoạn chính: Giai đoạn từ khi thành lập đến năm 1990, cơ sở vật chất và thiết bị kỹ thuật còn lạc hậu, quy mô khai thác nhỏ với công nghệ thủ công bán cơ giới, lực lượng lao động nhỏ lẻ, trình độ không đồng đều… Tuy nhiên, nhờ phát huy được sự đồng thuận của cả đội ngũ cùng với việc áp dụng nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật, Công ty đã sản xuất và tiêu thụ được gần một triệu tấn than nguyên khai; bóc xúc gần 1,8 triệu m3 đất đá.
Trong giai đoạn 1991-2000, trước những khó khăn do những tác động của cơ chế thị trường, nạn khai thác, vận chuyển, mua bán than trái phép diễn ra nghiêm trọng, đời sống người lao động gặp nhiều khó khăn do thiếu việc làm… Công ty đã được Công ty Than Nội Địa (nay là Tổng Công ty Công nghiệp mỏ Việt Bắc - Vinacomin) đầu tư cải tạo và triển khai nhiều dự án mở rộng mỏ; đầu tư thiết bị máy móc, phương tiện ô tô, máy xúc, máy gạt đủ năng lực để tổ chức mở rộng sản xuất, đồng thời Công ty cũng đề ra nhiều giải pháp tiết kiệm, giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm và mở rộng thị trường tiêu thụ. Đặc biệt, với việc tiếp nhận, quản lý và đưa vào khai thác tuyến đường sắt Quan Triều - Núi Hồng, tổng chiều dài 35km góp phần nâng cao năng lực tiêu thụ than (1992) cùng với việc đổi mới công tác quản lý điều hành, áp dụng các giải pháp kinh tế vào sản xuất và tạo thêm việc làm cho người lao động thông qua sản xuất than tổ ong, than ép… Công ty đã duy trì sản xuất, kinh doanh (SXKD) ổn định, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động. Trong giai đoạn này, Công ty đã khai thác và tiêu thụ 2 triệu tấn than nguyên khai; bóc xúc gần 3 triệu m3 đất đá (tăng gấp đôi so với thời kỳ trước); nộp ngân sách Nhà nước trên 13 tỷ đồng…
Giai đoạn 2001-2010 là thời kỳ phát triển tăng tốc của Công ty. Từ những thành công và bài học kinh nghiệm đã có, Công ty đã được Tổng Công ty Than Việt Nam (nay là Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam) và Công ty Than Nội Địa cho phép đầu tư mở rộng nâng cao công xuất mỏ nhằm cung cấp nguyên liệu than cho Nhà máy Nhiệt điện Cao Ngạn và nhu cầu phát triển của nền kinh tế quốc dân. Thời kỳ này, Công ty được đầu tư thêm nhiều thiết bị khai thác và vận tải hiện đại như: Máy xúc thủy lực gầu ngược CAT 330B, CAT 365CL, HITACHI ZX 870, HUYNDAI, KATO; máy gạt CAT D6R; ôtô KPAZ 6510, ôtô CAT 773F… để nâng cao năng lực sản xuất.
Trong thời kỳ này, ngoài việc tập trung giải quyết công nghệ khai thác, quản lý tài nguyên than, nâng cao hệ số thu hồi than, quản lý chất lượng than; tổ chức đầu tư sản xuất gạch tạo việc làm thu nhập cho người lao động… Công ty còn chú trọng công tác bảo vệ môi trường, xử lý nước thải, thu hồi và xử lý chất thải rắn nguy hại trong quá trình sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị. Đặc biệt, Công ty đã san lấp trên 232 nghìn m3 đất, cải tạo hoàn thổ 12,37ha đất trên diện tích đã khai thác thành đất nông nghiệp giúp các hộ dân ở địa phương ổn định, nâng cao đời sống thu nhập trong sản xuất nông nghiệp. Trong giai đoạn này, Công ty đã khai thác và tiêu thụ 3,33 triệu tấn than nguyên khai; bóc xúc gần 10 triệu m3 đất đá; nộp ngân sách Nhà nước 91,6 tỷ đồng; bảo đảm việc làm cho hàng trăm lao động với mức thu nhập bình quân 4,8 triệu đồng/người/tháng.
Từ năm 2010 đến nay, trước những khó khăn do khủng hoảng kinh tế thế giới, lạm phát trong nước diễn biến phức tạp, thị trường tài chính giảm sút, tiềm ẩn nhiều rủi ro, giá một số vật tư, nguyên liệu đầu vào tăng đột biến... Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo và giúp đỡ hiệu quả của Tập đoàn, Tổng công ty cùng với sự nỗ lực, sáng tạo của cả đội ngũ, Công ty vẫn duy trì phát triển SXKD doanh ổn định, bảo đảm việc làm thu nhập cho hơn 900 lao động, làm tốt nghĩa vụ ngân sách với Nhà nước. Đặc biệt, trong giai đoạn này, Công ty đã mở rộng các ngành nghề như: Phát triển SXKD khai thác đá vôi và làm vỏ bao xi măng cung cấp cho các nhà máy xi măng trong Tổng công ty, góp phần giải quyết việc làm cho trên 150 lao động, chủ yếu là người địa phương. Kết quả trong giai đoạn này, Công ty luôn hoàn thành xuất sắc các chỉ tiêu kế hoạch SXKD được giao; tổ chức khai thác, tiêu thụ được gần 2,5 triệu tấn than; tổng doanh thu đạt gần 1.885 tỷ đồng; nộp ngân sách Nhà nước 391 tỷ đồng; thu nhập bình quân của người lao động đạt trên 5 triệu đồng/người/tháng...
Song song với phát triển SXKD, Công ty Than Núi Hồng còn chú trọng công tác xây dựng Đảng và các tổ chức đoàn thể chính trị. Đảng bộ Công ty luôn là hạt nhân đoàn kết thống nhất, lãnh đạo đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Từ 22 đồng chí đảng viên sinh hoạt tại 4 chi bộ trong những ngày mới thành lập, đến nay, Đảng bộ Công ty đã phát triển với 180 đảng viên, sinh hoạt tại 11 chi bộ. Nhờ làm tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo và phối hợp tổ chức các phong trào thi đua phát triển SXKD, bảo đảm việc làm thu nhập cho người lao động và làm tốt công tác an sinh xã hội, những năm qua, Đảng bộ và các tổ chức Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh Công ty luôn được suy tôn trong sạch vững mạnh, trong sạch vững mạnh tiêu biểu.
Với những nỗ lực của các thế hệ cán bộ, công nhân viên và người lao động trong suốt quá trình 35 năm xây dựng và phát triển, Công ty Than Núi Hồng và các tập thể, cá nhân đã vinh dự được Đảng, Nhà nước, các bộ, ngành Trung ương và UBND tỉnh trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Chiến công hạng Ba (năm 1985), Huân chương Lao động hạng Ba (1990), Huân chương Lao động hạng Nhì (1995), Huân chương Lao động hạng Nhất (2000), Huân chương Độc lập hạng Ba (2005), Huân chương Độc lập hạng Nhì (2010)...