Nghệ nhân Miêu Thị Nguyệt, 81 tuổi, ở xóm Na Quán, xã Nam Hòa (Đồng Hỷ) hiện đang sở hữu nhiều cuốn sách sưu tầm câu hát Soọng cô của đồng bào dân tộc Sán Dìu. Bà cho biết: Khoảng 7.000 bài hát được tôi sưu tầm, chép lại, trong đó có nhiều bài hát bằng chữ Hán tôi mang đi nhờ dịch ra tiếng Việt để bà con cùng hát.
Nghệ nhân Miêu Thị Nguyệt say sưa sưu tầm các bài hát Soọng cô. |
Chúng tôi về xóm Na Quán, gặp bà Miêu Thị Nguyệt, người phụ nữ dân tộc Sán Dìu được tiếng đằm duyên với lời ca, tiếng hát Soọng cô. Không chỉ hát hay, bà còn là người truyền cảm hứng hát Soọng cô cho nhiều người trong đồng bào dân tộc Sán Dìu. Cũng vì thế ngôi nhà bà ở luôn đầy ắp câu hát. Khi của các thành viên Câu lạc bộ hát Soọng cô Na Quán, lúc là tiếng hát của con trẻ do bà truyền lời.
Trong ngôi nhà xây cấp 4, bên chiếc bàn gỗ mộc, bà vận bộ trang phục truyền thống dân tộc Sán Dìu. Bộ trang phục may bằng vải chàm, nẹp màu và có 2 chùm tua bằng sợi vải tạo thành màu ngũ sắc. Bà đeo mục kỉnh, cầm cây bút, cẩn trọng chép lời bài hát vào vở. Những khi như thế trông bà giống một tri thức, hay một nhà văn hóa hơn là một nông dân sinh sống ở vùng sơn dã.
Sinh ra trong gia đình có nhiều thế hệ biết hát Soọng cô, nên bà Nguyệt cũng như người thân của mình lớn lên trong câu hát, lời ví. Từ tấm bé bà đã được cha mẹ dạy cho hát bài về các mùa trong năm, về chào hỏi, mừng nhà mới, đám cưới, chúc thọ, tình yêu đôi lứa. Bà được học theo lối truyền khẩu, học nhanh, nhớ lâu. 17 tuổi, bà cùng đám con gái trong làng dắt nhau đến các làng có đồng bào người Sán Dìu để hát đối ví. Tất nhiên đó là cuộc hát được trai các làng mời đón thử tài con gái bên.
Chuyện là hồi bấy giờ, chị Nguyệt và anh Trần Thái, người xã An Khánh (Đại Từ) đã hát với nhau hơn 3 năm, cứ “Bữa thì anh tới, bữa em sang”. Sau hơn 3 năm, hai người nên duyên chồng vợ. Đôi trai tài, gái sắc đưa nhau về định cư ở bên quê ngoại, tức xóm Na Quán bây giờ. Cả 2 người cùng tham gia làm cán bộ xã Nam Hòa, bà Nguyệt được nhân dân tín nhiệm bầu làm Chủ tịch UBND xã, ông Thái được Đảng tin tưởng giao nhiệm vụ làm Bí thư Đảng ủy xã. 2 người sinh với nhau được 5 người con.
Công việc bận rộn, vợ chồng ông bà thôi hát, dành thời gian nuôi con. Chỉ tiếc là vợ chồng bà Nguyệt chắng truyền được bài hát nào cho 5 người con của mình. Mãi sau này, nghỉ hưu, vợ chồng bà Nguyệt mới rủ nhau tập hát lại. Tháng 5-2010, bà Nguyệt được địa phương bình bầu là người dân tộc thiểu số tiêu biểu, được về Hà Nội dự Đại hội đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam.
Trong chuyến đi đó, bà được gặp nhiều đại biểu là người dân tộc thiểu số ở các tỉnh trên cả nước, qua trò chuyện với mọi người, bà nhận ra ở mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hóa riêng, nhưng ấn tượng, dễ nhớ là lời của các bài hát bằng tiếng dân tộc. Chính vì thế, ngay khi trở về nhà, bà Nguyệt thực hiện công việc đi sưu tầm các bài hát Soọng cô, và bắt đầu sao chép lại.
Những ngày đầu ngồi vào bàn viết, bà chép lại các bài hát do bà đã thuộc. Chép được hơn 500 bài thì... cạn vốn, bà bắt đầu đi sưu tầm bài hát của người xung quanh, như của cụ Trần Thị Lý, cụ Miêu Thị Kẻm và sưu tầm từ các cuốn sách chép lời bài hát Soọng cô cổ của dòng họ để lại. Nhiều bài hát bằng chữ Hán, bà đi nhờ người quen dịch hộ, rồi nảy vần, cất nhời hát, thấy xuôi xuôi mới bắt đầu chép lại vào vở.
Rồi trong những chuyến đi hát giao lưu ở các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc..., bà để tâm học thuộc những bài hát mới để khi trở về đến nhà lại ngồi vào bàn chép lại. Có những hôm bà vừa chép bài vừa hát từ sáng sớm cho đến đêm khuya. Bà mải miết chép như sợ ngày mai, bởi một lý do gì đó, lời hát không còn được lưu lại.
Từng câu hát đọng lại, dày dặn trên từng trang vở. Rồi từng cuốn được lấp đầy câu hát bởi nét chữ nghiêng rơi của bà. Viết xong mỗi cuốn sách, bà cẩn thận xếp ngay ngắn bên góc bàn, và tiếp tục viết lời hát vào 1 cuốn vở mới. Bà đã chép các bài hát của dân tộc mình hết hơn 20 cuốn vở học trò. Cuốn dày nhất gần 1.200 bài, cuốn mỏng nhất chép 350 bài…
Khi được hỏi bao giờ bà mới nghỉ ngơi? Bà trả lời: Tôi sẽ tiếp tục sưu tầm, chép lại những câu hát Soọng cô mình gặp. Vì đó là một di sản văn hóa phi vật thể cha ông chúng tôi để lại.
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin