Mênh mông một khoảng trống

Thanh Tâm Nguyễn 18:07, 25/11/2025

Trước bất kỳ mọi thay đổi của lịch sử, giáo dục vẫn có ý nghĩa trụ cột, vẫn là yếu tố nội sinh quan trọng, là động lực cho sự phát triển xã hội, đặc biệt trong bối cảnh chuyển từ lao động cơ bắp sang lao động trí óc. Ý đồ/nguyện vọng truyền trao những vấn đề của quá khứ/truyền thống để xây dựng bản lĩnh hiện tại, tạo tiềm lực cho tương lai được thực hiện tập trung và lí tưởng thông qua giáo dục. “Giáo dục và đào tạo góp phần bảo vệ chế độ chính trị của mỗi quốc gia, dân tộc bởi giáo dục - đào tạo góp phần xây dựng đội ngũ lao động có trình độ cao làm giàu của cải vật chất cho xã hội đồng thời có bản lĩnh chính trị vững vàng, đủ sức đề kháng chống lại các cuộc “xâm lăng văn hóa” trong chính quá trình hội nhập quốc tế và toàn cầu” (Trần Duy, 2021).

Trong rất nhiều ý nghĩa của giáo dục, tôi quan tâm tới hai điều mà nếu thực hiện tốt thì cả giáo dục lẫn văn học nghệ thuật sẽ đồng thời hưởng lợi. Thứ nhất, giáo dục góp phần bảo vệ chế độ chính trị của mỗi quốc gia. Thứ hai, giáo dục góp phần đào tạo công chúng cho văn học nghệ thuật, điều thực sự bất ổn trong thời gian qua dẫn đến hiện tượng các sân khấu nghệ thuật trống vắng người xem, các tác phẩm nghệ thuật thiếu hơi ấm cộng hưởng của người tiếp nhận.

Giờ ngoại khóa. Ảnh: Ngọc Hải
Giờ ngoại khóa. Ảnh: Ngọc Hải

Với những ý nghĩa đó, giáo dục cần nhận được sự quan tâm của văn học nghệ thuật. Tiếc thay, đấy lại là khoảng trống mênh mông của văn học Việt Nam.

Những năm gần đây, định hướng đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục cùng với nỗ lực thích ứng với giáo dục trực tuyến để ứng phó với dịch bệnh đã đặt ra những yêu cầu mới đối với người thầy. Không chỉ là tấm gương học tập suốt đời, người thầy còn là nhà giáo dục chuyên nghiệp, là nhà nghiên cứu, là nhà canh tân xã hội. Người thầy tỏa ra/tiếp thêm “năng lượng” để tạo sự thay đổi tích cực cho người học. Không chỉ vậy, “trong một chừng mực nhất định, các lực lượng xã hội đã được “giáo hóa” từ tác động của người thầy, nhà trường, ý thức và trau dồi khả năng sư phạm trong công tác giáo dục đồng nghĩa với việc thu hút và nâng cao trách nhiệm, năng lực giáo dục và các thành phần có sự cộng tác với mình trong việc giáo dục trẻ em” (Tô Bá Trượng, 2019).

Ấy vậy mà hình tượng người thầy vẫn mãi mắc kẹt đâu đó trong cảm hứng sáng tạo của văn nghệ sĩ. Điều này đi ngược với niềm tin yêu dành cho nhà giáo, nghề giáo của dân tộc Việt Nam, khi mà hình ảnh người thầy từ thời trung đại đến hôm nay luôn có chỗ đứng trang trọng trong lòng phụ huynh và học sinh.

Nền giáo dục dân tộc từ xưa đến nay đã tạo nên được nhiều danh nhân, nhà văn hóa lớn và lãnh tụ kiệt xuất. Bản thân những người đó khi trở thành nhà giáo đã có những đóng góp tích cực cho lịch sử, đặc biệt là đào tạo chất lượng cao cho dân tộc. Bác Hồ trước khi ra đi tìm đường cứu nước đã là nhà giáo, Chu Văn An cũng chọn nghề giáo sau khi từ quan. Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng nói, nếu không có chiến tranh thì tôi sẽ là nhà giáo dạy lịch sử. Vậy mà cho đến nay vẫn có quá ít những trang văn về những con người đặc biệt ấy xét ở cống hiến của họ trên cương vị nghề giáo.

Các nhà văn hôm nay dù đã nhập cuộc khá tốt với những vấn đề của đời sống nhưng vẫn đứng ngoài những vấn đề của giáo dục nhà trường. Kì thực, hiện thực đời sống nhà trường rất phong phú và có khả năng khơi mở nhiều cảm xúc. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, bao nhiêu lứa học trò đã gác bút nghiên ra trận. Nhờ kiến thức tiếp thu ở trường học mà họ đã trở thành người lính tuyệt vời - những người chiến sĩ có văn hóa. Trong ước vọng về hòa bình của những người lính ấy, có giấc mơ trở lại với mái trường, đứng trên bục giảng để đào tạo thế hệ trẻ. Cũng trong hai cuộc kháng chiến ấy đã có bao nhiêu cuộc tiễn đưa và trở về của những người thầy, người cô làm lay động lòng người.

Đến nay, dù giáo dục đã có những đổi thay lớn thì xã hội trong nhà trường cũng luôn đầy ắp mối quan hệ: thầy trò, đồng nghiệp, bạn bè, giáo viên và phụ huynh, nhà trường và xã hội. Tất nhiên, không hẳn những mối quan hệ ấy lúc nào cũng được xử lý tốt nên góc nhìn của xã hội về nghề giáo đôi lúc, đôi chỗ ít nhiều đã mất đi tính lý tưởng. Có người chỉ nhìn giáo viên như một tiểu tư sản, chưa thấy mặt đóng góp của họ.

Tất cả những vấn đề trên của giáo dục nhà trường, mà trong đó phần chất thơ hẳn sẽ nhiều hơn, không hiểu vì sao lại lọt khỏi mối bận lòng của nhà văn. Để rồi mãi cho đến hôm nay, chỗ đứng trang trọng của người thầy, của giáo dục nhà trường trong văn chương vẫn không có.

Ngay cả những nhà văn có xuất phát điểm là nhà giáo vẫn không biết mình đang mang một món nợ không nhỏ với trường xưa lớp cũ, với giáo dục hiện tại. Vì thế, các thế hệ người học phải gửi yêu thương và niềm tôn kính đến những người thầy, người cô thuộc về các nền văn hóa khác đã từng hiện diện trong các tác phẩm như: Người thầy đầu tiên (Aitmatov), Totto-chan, cô bé bên cửa sổ (Tetsuko Kuroyanagi), Người thầy (Frank McCourt), Những tấm lòng cao cả (Edmondo De Amicis), Buổi học cuối cùng (Alphonse Doudet)…

Quả thực, văn học trong nỗ lực tiếp cận cái mới đã rời xa giáo dục; không nhìn thấy được số phận, diện mạo, hơi thở của giáo dục trong mối quan hệ với sự phát triển kinh tế, công nghệ và sự phì đại của văn hóa.

Dễ hiểu và cũng chạnh lòng khi chứng kiến độc giả hào hứng đón nhận các tác phẩm: Cửa tiệm thời gian (Lee Na Young), Phiếu bé hư (Hwang Sun - mi), Chiến binh cầu vồng (Andrea Hirata)... Những tác phẩm ấy đã khai thác cả những vấn đề không chỉ riêng của giáo dục: chuyện những đứa trẻ phải bán ký ức hạnh phúc để mua thời gian trong cuộc chạy đua với công nghiệp giáo dục; cuộc chiến chống lại số phận cơ hàn, chống lại định kiến của xã hội, chống lại sự quên lãng của các chính trị gia và âm mưu của các thế lực khác để nuôi dưỡng giấc mơ đến trường, nhưng rốt cuộc đâu đó vẫn còn những giấc mơ dang dở.

Những tác phẩm văn học nước ngoài về đề tài giáo dục được nhắc đến ở trên là niềm tự hào của văn học các nước. Đấy là điều văn học Việt Nam chưa làm được dù nhu cầu thưởng thức những tác phẩm văn học về giáo dục nhà trường chưa bao giờ mất đi trong người đọc. Những tác phẩm đã có như Mái trường thân yêu (Lê Khắc Hoan), Bài học đầu tiên (Trần Thị Hồng Hạnh), Tháng ngày ê a (Lê Minh Hà), Ngôi trường không nổi tiếng (Lưu Thị Lương), Ông giáo làng trên tầng gác mái (Nguyễn Thế Vinh)… chưa thể làm hạ cơn khát về mảng sáng tác này, càng không đủ để giới thiệu, quảng bá một Việt Nam tiến bộ, lí tưởng về hình ảnh con người và các triết lí, phương pháp giáo dục với bè bạn trên thế giới. Hoàn toàn chưa có tác phẩm ngang tầm giáo dục nhà trường để có thể góp phần khắc phục hiện tượng “bành trướng” của văn học nước ngoài ở thị trường sách Việt Nam, xét riêng mảng văn học về giáo dục nhà trường.

Nhớ lại tác phẩm Sao thầy không mãi teen teen? đã từng làm xôn xao độc giả học trò của Lê Hoàng. Sách bán chạy, người đọc tuổi ô mai thì thích thú vì đã có người hiểu mình đến thế. Tôi cho rằng thành công chủ yếu của Lê Hoàng là đã chạm đến câu hỏi lớn của giáo dục Việt Nam đương đại. Đúng như tác giả đã nói: “Tôi viết cuốn sách này với mục đích đặt ra một câu hỏi mà trẻ em muốn dành cho người lớn từ rất lâu. Đó là tại sao học ở trường lại chán đến thế, đặc biệt là môn lịch sử. Trong khi thực tế đây là môn học cực kỳ hấp dẫn và sinh động. Hễ cứ có một hội nghị giáo dục nào diễn ra thì lịch sử lại được đưa làm thí dụ cho sự bất lực của nhà trường. Lê Hoàng vô cùng kinh ngạc về điều đó. Và tôi tin rằng trẻ con cũng vô cùng kinh ngạc. Lịch sử là thứ sinh động nhất trong đời sống chúng ta vì trong nó có tình cảm, có văn hóa, có tình yêu, có mỗi cái cây mỗi góc nhà, mỗi viên gạch, từ thứ nhỏ xíu cho đến thứ vĩ đại.

Người thầy giáo trong Sao thầy không mãi teen teen? phải dạy khác đi vì anh ấy có một học sinh đòi hỏi khác đi. Nhân vật Ly Cún theo tôi là chính xác cho tuổi teen hôm nay và toàn bộ vấn đề cải cách giáo dục nằm ở chỗ đó. Chính trẻ em, chính những đứa bé như Ly Cún bắt buộc người lớn phải thay đổi trong khi chúng ta có thói quen nghĩ ngược lại” (Minh Trang, 2014).

Quả thực, những vấn đề của cải cách giáo dục cùng với sự phát triển tâm lý lứa tuổi học trò rất cần sự nhận diện, phản ánh cụ thể của các nhà văn thông qua các tác phẩm nghệ thuật.

Nhà văn Lê Phương Liên cũng đã “đọc” được nhu cầu thiết yếu ấy: “Đứng trước thực tế sôi động hiện nay, hơn bao giờ hết trẻ em cần có những tác phẩm viết về nhà trường của chính các em, động chạm đến những câu hỏi, những vấn đề bức xúc của thế hệ trẻ hôm nay. Trong văn học thiếu nhi, mảng văn học về nhà trường, cập nhật trực diện đời sống lớp người vị thành niên, đang đòi hỏi những tác giả mới dám dấn thân vào một hiện thực mới, để sáng tạo ra những tác phẩm mới thức tỉnh một thế hệ bạn đọc vươn dậy tự hoàn thiện nhân cách của mình nhằm tạo ra một sức sống mới cho văn hóa dân tộc Việt Nam” (Lê Phương Liên, 2015).

Để giải quyết vấn đề cấp bách này, sự “vận động” của cá nhân người cầm bút là điều tất yếu. Các tác giả ngoài việc tiếp cận đề tài giáo dục cũng nên “phục hồi” mối quan hệ của nhà văn với nhà trường bằng những cuộc gặp gỡ trực tiếp để nói chuyện nghề, để chia sẻ về tác phẩm của mình và các bạn văn khác, như cách thế hệ nhà thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Phạm Tiến Duật… từng làm trong quá khứ.

Thông qua mối quan hệ này, các thế hệ học trò sẽ hiểu sâu hơn về những “câu chuyện bếp núc” của nghề văn, sẽ sống cùng trải nghiệm nhận thức và trải nghiệm cảm xúc của người nghệ sĩ, sẽ nhạy bén hơn cảm thụ nghệ thuật. Nhà văn cũng theo đó mà có cơ hội gặp hàng triệu độc giả để quảng bá sản phẩm. Trong trường hợp giấc mơ lập nghiệp ở nơi xa xứ vẫn không ngừng theo đuổi những độc giả học sinh thì chắc hẳn họ cũng mang theo những ấn tượng đẹp đẽ về văn học dân tộc trên hành trình di cư. Và biết đâu ý thức quảng bá văn học dân tộc cũng sẽ hình thành trong họ.

Nhưng, để khắc phục “lỗ hổng” trên một cách rốt ráo thì mối quan hệ giữa văn học nghệ thuật với giáo dục nhà trường phải có sự điều phối của các cơ quan chức năng thông qua các “khế ước” cụ thể.

Có rất nhiều vấn đề liên quan đến giáo dục nhà trường mà các cơ quan chức năng phải nghiêm túc đối diện. Các quy chế, chiến lược phát triển văn hóa nghệ thuật cần khẳng định rõ vai trò, nhiệm vụ cụ thể của nhà văn đối với giáo dục nói chung, giáo dục nhà trường nói riêng. Đó là điều bắt buộc khi mà bản sắc văn hóa dân tộc chỉ có thể được hình thành, duy trì tốt nhất thông qua giáo dục nhà trường.

Nghị quyết 23 về xây dựng văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới có đề cập vấn đề này nhưng đó vẫn chỉ là cái chạm khẽ: “Nâng cao chất lượng các trường đào tạo văn học, nghệ thuật; hoàn thiện chương trình, nội dung, giáo trình trong các trường cao đẳng, đại học, giảng dạy các ngành đào tạo văn học, nghệ thuật (sáng tác, nghiên cứu, lý luận, phê bình, biểu diễn, chỉ huy, đạo diễn...); rà soát, sửa đổi, bổ sung các chế độ, chính sách đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng văn nghệ sĩ, đáp ứng yêu cầu đào tạo đặc thù trong lĩnh vực này” (Nghị quyết 23-NQ/TW về Xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới). Những chỉ tiêu và biện pháp cụ thể về mối quan hệ giữa văn học nghệ thuật với giáo dục vẫn chưa một lần được làm rõ.

Khi bàn về vấn đề này, tôi chợt nghĩ tới Chiến lược phát triển giáo dục ở Litva năm 2003 - 2012. Trong khi đưa ra các hướng dẫn về giáo dục, tài liệu này tuyên bố rằng, sự phát triển công nghệ hiện đại tự nó không đảm bảo sự tồn vong của quốc gia, Litva chỉ có thể hình thành và duy trì bản sắc của mình thông qua văn hóa, do đó đầu tư cho giáo dục là điều cực kỳ quan trọng. Nên chăng, chúng ta cần phải nghiêm túc suy ngẫm thêm về vai trò của giáo dục trong sự phát triển xã hội để có thể làm tốt hơn trách nhiệm của nhà văn đối với giáo dục đào tạo nước nhà?

Tài liệu tham khảo

1. Trần Duy (2021), Vai trò của giáo dục và đào tạo đối với sự phát triển, http://www.nxbhanoi.com.vn/chi_tiet_tin/tabid/204/cateID/4/artilceID/15531/language/vi-VN/Default.aspx.

2. Nguyễn Quang Hưng (2021), Loại bỏ “sạn” trong sách giáo khoa, http://daidoanket.vn/loai-bo-san-trong-sach-giao-khoa-5665440.html.

3. Lê Phương Liên (2015), Thiếu những tác phẩm văn học hay về nhà trường, http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c0/n19833/Thieu-nhung-tac-pham-van-hoc-hay-viet-ve-nha-truong.html.

4. Đức Thuận (2021), Gay gắt cuộc tranh luận về "rút gọn" văn bản gốc làm ngữ liệu sách giáo khoa, https://viettimes.vn/gay-gat-cuoc-tranh-luan-ve-rut-gon-van-ban-goc-lam-ngu-lieu-sach-giao-khoa-post150246.html).

5. Minh Trang (2014), Sao thầy không mãi teen teen, https://tuoitre.vn/sao-thay-khong-mai-teen-teen-653113.htm.

6. Tô Bá Trượng (2019), Phát huy vai trò của người thầy trong đổi mới giáo dục đào tạo, https://tuyengiao.vn/khoa-giao/giao-duc/phat-huy-vai-tro-cua-nguoi-thay-trong-doi-moi-giao-duc-dao-tao-125268.