Vừa sau Tết, tiết trời hãy còn đang xuân. Trên những khoảnh đồi xung quanh vẫn ánh lên sắc hồng tàn muộn của những cánh đào.
![]() |
| Minh họa: Lê Quang Thái |
Đang đều tay phát quang những bụi gai rậm, Chảo Kin Sài chợt dừng lại dóng tai lên nghe ngóng. Đâu đây như theo gió những tiếng xôn xao nói cười đang truyền tới. Sài ngẩng lên hướng ánh mắt ra xa. Sài đang ngóng chờ điều gì? Sài vừa như biết lại vừa như không biết chính điều mà bản thân mình đang mong ngóng. Đã mấy năm rồi, có những điều tưởng mất đi nhưng hình như nó cứ vẩn vơ ẩn kỹ đâu đó trong góc khuất của niềm nhớ.
Tiếng lao xao con gái rõ dần. Hiện ra trong tầm nhìn của Sài là một vài thiếu phụ vừa tung tẩy nói cười, vừa thay nhau chụp ảnh trên nền những cảnh đẹp. Sài đưa tay sờ lên những mảng rêu đỏ hồng đang bám chặt vào những phiến đá ram ráp vẫn còn chút sương đêm còn đọng lại, lành lạnh. Sài chợt tự hỏi, điều gì đã thu hút du khách đến với nơi đây? Phải chăng từ những câu chuyện lưu truyền, vì những hoang tàn đổ nát nhưng vẫn mang dấu ấn một thời hay bởi sự cổ kính, rêu phong đang từng ngày phủ kín lên huyền tích đã qua.
Những người đàn bà xúng xính trong các bộ đồ sặc sỡ sắc màu. Có người thuê hẳn trang phục của người Dao Đỏ để mặc, nhưng vẫn không giấu được vẻ sành sỏi, sắc sảo phố phường. Họ đang chạy chỗ nọ, xúm đến chỗ kia để tìm những góc ảnh đẹp trên những chiếc máy ảnh hay điện thoại thời thượng. Không ai quan tâm tới một người đàn ông vẫn đang cặm cụi phát dọn ở xung quanh, y như kiểu nước sông không phạm nước giếng, việc ai người ấy làm. Họ đến đây ngày hôm nay cũng chỉ vì nghe danh mà đến, đến để thỏa chí tò mò của riêng họ, để chiêm ngưỡng vẻ đẹp còn sót lại của tu viện mà không hề biết rằng tu viện cũng đã từng có lịch sử của riêng nó. Nó cũng đã từng có một thời sừng sững như một tượng đài và có cho riêng mình những câu chuyện, mà nếu như ai không quan tâm sẽ không thể biết được, hiểu được. Giờ đây họ chỉ cần lấy vẻ đẹp hoài cổ, tiềm ẩn, chút hoang sơ, kỳ bí của tu viện để làm nền cho những tấm hình. Liệu đã có mấy ai quan tâm đến những gì đã từng trải qua ở nơi đây.
“Anh là người ở đây à? Anh có biết về lịch sử của tu viện, ngoài những điều đã được đăng trên báo chí không anh”? Cô đã từng hỏi anh như vậy khi thấy anh lúi húi dọn dẹp bên trong tu viện, cũng như hôm nay anh vẫn làm công việc quen thuộc của mình. Cho đến giờ phút ấy có lẽ cô là người đầu tiên hỏi anh những điều mà chưa ai từng hỏi. Thường thì những người xa lạ thường gắn kết lại với nhau bởi những điều nhỏ nhặt như thế.
Anh nhìn sâu vào mắt cô, một ánh mắt trong veo, lấp lánh như có những đốm lửa đang nhấp nháy. Nó không vô hồn, nhợt nhạt, mơ hồ, lãng đãng như biết bao cặp mắt Sài đã nhìn vào. Điều đó tạo nên cho người đối diện một sự tin cậy. Cô khoác trên mình giản dị một bộ đồ không nổi bật. Áo pull, quần jean bàng bạc, giày thể thao, tóc búi cao đuôi ngựa lúc lắc. Có chút gì đó nom hơi bùi bụi nhưng không ngông ngông như mấy đứa trẻ dưới phố. Là Sài thấy thế. Trông cô thực sự là một thiếu nữ trinh khiết và trong trắng theo đúng nghĩa của nó. Không như những đứa trẻ mới nứt mắt ra đã sành sỏi sự đời. Sài biết con gái bây giờ đâu còn ngu ngơ như trước kia nữa, trăm đứa thì cũng hết chín chín đứa thập thành. Kể cả cái đám con gái miền sơn cước mà Sài thấy đám nhà văn dưới xuôi hay tả về vẻ đẹp ngây thơ của chúng. Mười đứa thì hết chín đứa bập bẹ ngoại ngữ chèo kéo khách du lịch với đủ các chiêu trò lây nhiễm từ ô trọc cuộc đời. Nếu không cũng tụ bạ nói tục như ranh, câng câng phô mình như đang theo kịp với hối hả dòng đời.
Thực ra ngay từ khi cô bước vào nơi đây Sài đã thấy ở cô có điều gì đó khác hẳn so với mọi người. Không lăng xăng chụp ảnh, không ngó ngược ngó xuôi ra cái vẻ ta đây. Cô tỉ mẩn đi dọc theo từng bức tường trồi sụt nham nhở, đôi bàn tay chậm rãi sờ lên từng lớp rêu mỏng. Cô trầm ngâm ngước nhìn những ô cửa sổ hình bán nguyệt, theo kiến trúc Roman, đôi tai như đang căng ra để nghe những gì từ quá khứ vọng lại.
“Hẳn cô từng biết, một thời đây là một công trình vừa đồ sộ vừa cầu kỳ một cách lạ thường”? Sài trầm ngâm hỏi cô gái.
“Vâng! Vậy mà giờ đây đã thành phế tích”! Tiếng cô nhẹ nhàng thoảng trong gió.
“Những công trình này có thể mất đi theo thời gian, nhưng những điều trong này tốt nhất đừng nên để mất”! Vừa nói Sài vừa chỉ vào cái đầu bù rù tóc của mình.
Cũng chính vì không muốn nó từng ngày cứ dần biến mất đi theo thời gian nên hằng ngày Sài vẫn tranh thủ bươn bả từ nhà lên đây cất công dọn dẹp xung quanh. Nhất là những đám dây leo rậm rạp cứ từng giờ xâm thực leo bám lên những bức tường hòng che khuất đi những dấu tích còn sót lại của tu viện.
“Sao cô lại có ý muốn tìm hiểu về cái đã trở thành phế tích này”? Sài đã từng hỏi cô như thế khi thấy ánh mắt cô cứ chăm chắm nhìn mình. Phải chăng cô biết mình đang nắm giữ điều gì đó?
“Có lẽ tại trí tò mò, mà có lẽ cũng tại những câu chuyện không đầu không cuối của bà tôi chăng? Anh cứ cho là như vậy đi”! Vừa nhìn Sài cô vừa trả lời.
“Bà cô”? Sài vừa buột miệng hỏi trong vô thức, vừa chợt nhớ tới ông mình.
“Phải! Bà tôi năm nay đã gần chín mươi, trí nhớ có chút lẫn lộn. Nhưng mỗi lần tôi nói chuyện với bà thì trong những câu chuyện rời rạc bà đều nhắc đến những bà sơ đã từng cưu mang bà ở khu Nhà Chung trong những năm bốn nhăm đói kém, chiến tranh loạn lạc. Bà cứ băn khoăn mãi một điều không biết những bà sơ ấy là ai đã ra tay cứu giúp mình để cho bà sống đến ngày hôm nay. Bà chỉ mong trước khi nhắm mắt có thể biết được những thông tin về họ. Tôi ban đầu cũng không để ý lắm, nhưng dần dà tôi hiểu đó là những chấp niệm chưa thể buông bỏ trong suy nghĩ của bà. Vô tình tôi đọc được một số thông tin về tu viện nay nên tôi muốn tìm hiểu sâu hơn về nó. Nhất là những người đã từng sống ở đây”.
“Đã bao nhiêu năm tháng qua đi rồi, liệu cô có thể làm được gì”?
“Bà tôi từng bảo chỉ cần tôi có đức tin là có thể làm được. Tôi tin là mình có đủ đức tin như bà tôi nói”!
“Cơ mà không có lẽ lại cũng có một sự trùng hợp thế chăng”? Sài lẩm bẩm.
“Anh nói gì? Trùng hợp? Là sao”? Cô ngước lên nhìn anh.
“Là câu chuyện của bà cô và ông nội tôi”!
Ông nội đã từng kể đi kể lại cho Sài nghe không biết bao nhiêu lần từ khi Sài còn bé tí về những quãng đời khốn khó của ông. Nhất là những năm ông mới lớn lên chập chững bước chân vào đời. Ông là người gốc ở Tả Phìn này. Trong những năm tháng Pháp cai trị hầu như ai cũng lâm vào cảnh bần hàn. Hằng ngày ông lang thang khắp nơi kiếm miếng ăn. Ngày mà những nữ tu khổ hạnh thuộc dòng Nữ tu Hội Thánh Kitô được quan toàn quyền Bắc Kỳ ký khế ước chuẩn y việc cấp khu đất bỏ hoang, vị trí cạnh trạm nghiên cứu giống cây ăn quả Tả Phìn với giá trị dài lâu và chuyển về đây ở trong ngôi nhà gỗ cũ kỹ, không tiện nghi, cũng là ngày lần đầu tiên ông được nhìn thấy những nữ tu đội lúp trên quê hương mình. Sau này ông gọi họ là những bà sơ. Ban đầu ông thấy lạ không dám lại gần họ.
Khi ấy quan Pháp tỉnh trưởng Lào Cai đã đồng ý cấp cho đoàn nữ tu đàn gia súc, gia cầm làm giống và rất nhiều nông cụ để họ bảo đảm cuộc sống của mình ở nơi vùng cao heo hút này.
Ông được bước vào nơi ở của những bà sơ là sau khi được họ tận tình cứu chữa lúc phát hiện ra ông bị rắn cắn ngay gần cửa rừng trong lúc họ đang đi nghiên cứu những giống cây trồng. Nếu không có các bà sơ chắc ông sẽ nằm chết ở đấy mà không ai hay khi nọc độc của rắn đang ngấm dần lên tim.
Từ đấy ông không thấy họ khó gần như cảm nhận ban đầu nữa. Ông cùng với các nữ tu ở tu viện đã tích cực tham gia nghiên cứu, phổ biến kỹ thuật canh tác tại địa phương, tập trung vào các loại cây ăn quả, cây lương thực vùng ôn đới (đại mạch, lúa kiều mạch đen), rau xanh, nho, khoai lang… Từ đó tu viện đã trở thành nơi cung cấp thực phẩm sạch phục vụ nhu cầu tiêu dùng của quân nhân, khách du lịch Sapa đến nghỉ dưỡng. Cuộc sống từ đó cũng đỡ vất vả hơn và cũng đã giúp ông trải qua được nạn đói khủng khiếp năm bốn nhăm khi mà ngay trong bản đã có nhiều người tha phương rồi chết vì đói rét. Ông đã coi tu viện như là ngôi nhà của mình. Ông cũng là người chứng kiến việc xây dựng tu viện ngay từ những ngày đầu. Có phải chăng chính vì vậy mà ông luôn đau đáu về nó qua từng nốt thăng trầm của lịch sử.
Năm 1945, khi tình hình chính trị trở nên bất ổn, Nhật đảo chính Pháp. Rồi khi sự sụp đổ của phát xít Nhật chỉ còn tính từng giờ, Cách mạng Tháng Tám nổ ra. Trước tình hình mất ổn định ở khu vực như vậy, đoàn nữ tu đã di chuyển về Hà Nội, còn ông thì tham gia vào Vệ Quốc đoàn. Tu viện bỏ hoang từ đấy.
Cuộc chiến tranh dọc dài đất nước cứ cuốn ông của Sài đi. Từ chiến dịch Biên Giới đến Điện Biên Phủ trong cuộc kháng chiến chín năm cho đến những chặng đường vượt Trường Sơn vào Nam đánh Ngụy, đuổi Mỹ. Ông chỉ kịp lấy vợ rồi sinh ra bố Sài giữa những lần ngắt quãng tiếng súng mà không kịp có dịp nào về thăm lại tu viện.
Ngày ông nội Sài về thăm lại tu viện, nơi một thời đã cưu mang ông, trước mắt ông là khung cảnh ngày một hoang tàn, đổ nát ẩn hiện giữa làn sương bao phủ bởi sự tàn phá của chiến tranh, của thiên nhiên và của cả bàn tay con người góp sức. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, tu viện chỉ còn lưu giữ lại được mảng tường đang hoang hóa từng ngày, dần dần nhuốm màu thời gian. Qua nhà dọc, nhìn kỹ lên mặt tường phía trước ông thấy rất rõ nhiều vết đạn còn in dấu. Chẳng biết đấy là hậu quả của những viên “đạn lạc” hay là những phát đạn có chủ đích nhằm vào tu viện? Nhìn cảnh ấy tự dưng hai dòng nước mắt cứ chảy dài trên khuôn mặt sạm màu thuốc súng của ông.
Đã có lúc ông dùng dằng muốn đưa cả nhà về xuôi sinh sống. Đến khi những giọt nước mắt tứa ra khi thấy tu viện đang ngày một hoang tàn ông quyết định quay về bản để mong cố gắng níu giữ những gì còn sót lại. Ông muốn con ông, cháu ông phải luôn ghi nhớ những ký ức vẫn còn neo lại trong ông. Con cháu ông phải gìn giữ nơi những bà sơ nhân hậu đã từng cứu giúp mình. Những người đã từng có thời gian không phân biệt giai cấp, giàu nghèo, sang hèn sẵn sàng chìa tay nâng đỡ những số phận bị chiến tranh vùi dập.
Bố Sài mất sớm, những việc nhẽ ra chưa đến lượt Sài phải làm thì giờ đây Sài đang phải làm thay cho cả bố. Câu chuyện về những mảng ký ức xa xăm của ông cứ từng ngày, từng ngày thấm vào Sài như một lẽ tự nhiên của đất trời. Sài cảm thấy câu chuyện của ông như đang gắn chặt vào mình. Những lúc rảnh rỗi Sài lại lên tu viện dọn dẹp cho dù chẳng thể làm gì để níu giữ lại sự tàn phá âm thầm của mẹ thiên nhiên, nhưng Sài cũng đã làm giảm bớt phần nào sự góp phần tàn phá của con người. Mỗi khi có du khách đến thăm tu viện, nếu họ cần nghe lại những câu chuyện cũ Sài sẵn sàng làm hướng dẫn viên không công kể lại những mẩu vụn ký ức của ông đã thấm đẫm truyền sang mình.
Thi thoảng lên đây, mỗi khi không có du khách, một mình với những bức tường cổ kính im lìm, giữa công trình đã đổ nát, hoang tàn ẩn hiện giữa làn sương bao phủ Sài nhắm mắt đắm chìm vào những ký ức xa xăm. Hai bàn tay lần theo những bức tường đá phủ kín rêu phong theo năm tháng. Và đôi khi giữa những viên đá xám ngoét, lạnh ngắt ấy, chợt lấp ló một mầm non vừa nhú, khiến người ta phải tròn mắt ngạc nhiên. Đâu đó có sự xưa cũ, hoài hiệm, mông lung và huyền bí tựa như đang lạc bước vào chính khung cảnh phim thần thoại châu Âu xưa. Trong đầu Sài dường như đang thấy hiện ra rõ mồn một các mảng tường, những ô cửa sổ, từng lớp, từng lớp nhưng vẫn kiên cố và chắc chắn. Những bức tường được xây khá dày giúp cho bầu không khí vừa trở nên thâm nghiêm, yên tĩnh, mát mẻ về mùa hè, ấm áp về mùa đông. Mỗi bờ tường, viên gạch… đều mang đậm dấu ấn thời gian. Hầu như ai cũng muốn chạm tay vào những viên gạch, vào lớp rêu phong để cảm nhận sự cổ kính của tu viện… Mặc dù bị hoang phế từ lâu, những đường nét và không gian trầm mặc của nó như đang lưu truyền những ký ức xa xăm nào đó cần lưu giữ để truyền lại cho những người mai sau…
Lắm lúc nằm nghĩ vẩn vơ giữa trời đất Sài chợt nghĩ liệu có phải cô cũng đang như Sài, cố tìm lại những ký ức xa xưa của bà để rồi lưu giữ nó trong một góc sâu tâm hồn của mình. Không biết cô đã tìm được chưa? Ngày ấy sau khi nghe xong những câu chuyện rời rạc của Sài, cô đã chụp lại tấm ảnh đen trắng đã lem nhem cũ của những bà sơ mà ông nội Sài coi như bảo vật. Cô bảo nhất định về sẽ cho bà mình xem có phải là những bà sơ đã từng cứu bà hay không. Và cô hứa sẽ quay trở lại nơi đây để nghe tiếp những câu chuyện của Sài, hay đúng hơn là của ông nội đã kể lại cho Sài.
Sài đã tin và chờ đợi. Chờ đợi để kể tiếp cho cô những câu chuyện về nơi đây, con người, cảnh vật, từ những chuyện xưa cũ đến những câu chuyện hiện nay. Đã mấy năm rồi, mỗi lần có du khách đến là Sài lại mong ngóng, để rồi trong những thấp thoáng giấc mơ của Sài có sự hòa trộn hình bóng mẹ Teresa và cô vào làm một.
Đã có lúc Sài nghĩ hay là những gì cô tìm kiếm không có ở nơi này, thế nên cô không quay lại như những gì mình đã hứa.
Trời lây rây mưa. Cơn mưa lất phất thoảng như có, thoảng như không, không làm ướt áo ai nhưng cũng đủ làm ướt đẫm những tâm hồn cô độc. Mấy lữ khách đã rủ nhau về với những tấm ảnh đẹp và chắc chắn sẽ chẳng ai còn nhớ về nơi đây nếu như không lật giở lại những tấm hình đã chụp. Sài nằm ngửa phơi mình trên lớp cỏ mịn như nhung, mặc nhiên cho những hạt mưa phủ kín thân mình.
Vào những ngày đầu xuân khung cảnh tu viện trở nên bớt hoang vu và ảm đạm hơn, khi người dân bản rộn ràng tổ chức vui hội dưới chân núi, với các nghi thức như tưởng nhớ người xưa, nghi lễ ăn thề cố kết cộng đồng mang đậm bản sắc dân tộc. Người Dao Đỏ ở Tả Phìn đón Tết với nhiều lễ hội mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống như lễ Tết nhảy, lễ hát giao duyên… Hoà trong không khí lễ hội, khi những rừng hoa đào, hoa mận khoe sắc khắp bản làng thì tu viện như được tôn thêm sự thâm trầm, cổ kính, tạo thành một bức tranh xuân độc đáo nơi núi rừng.
Lẫn trong mỏng mảnh làn mưa và phơn phớt cơn gió đảo qua có tiếng ríu rít trẻ con như những con chim đang nhí nhảnh chuyền cành trò chuyện trên bức tường đổ nát. Mới đầu xuân mà trường nào lại cho học sinh lên tận nơi đây thăm thú, Sài nghĩ vậy và vẫn nằm im tận hưởng những hạt mưa man mát như có như không lướt qua da thịt mình.
“Ơ, sơ ơi ở đây có người”! Tiếng con nít lanh lảnh vang lên ngay bên cạnh làm Sài bừng tỉnh. Lao xao đám con trẻ đủ các lứa tuổi, đứa lớn nhất chắc tầm hơn mười tuổi một chút đang vây quanh chỗ Sài nằm. Bất chợt lọt vào trong mắt Sài là bộ đồ dòng đen nhánh hai mắt cũng đang chăm chắm nhìn mình. Ánh mắt hay mưa lạnh thấm vào làm Sài rùng mình. Sài bật người đứng dậy.
“Sơ? Cuối cùng cô cũng quay lại”! Sài ấp úng nhìn người mình mong đợi trong bộ đồ dòng đội lúp trước mặt.
“Vâng! Tôi đã quay lại”!
“Vậy mà tôi tưởng cô, à không, sơ không quay lại”! Sài lắp bắp thay đổi cách xưng hô của mình.
“Thực ra tôi cũng định quay lại sớm, nhưng có nhiều việc làm cho tôi không thực hiện được. Ngày ấy có được bức ảnh của anh đã giúp bà tôi lúc tỉnh táo nhớ lại được nhiều điều, trong ấy có những bà sơ đã cứu giúp mình. Hóa ra họ chính là những người đã từng ở đây, khi loạn lạc chiến tranh phải về Hà Nội đã vô tình gặp và cứu giúp bà tôi, cũng như đã từng giúp đỡ ông của anh. Tôi đã lần theo từng bước chân của họ ở Hà Nội trước khi họ trở về cố quốc. Và khi đi thăm những trại trẻ mồ côi không hiểu sao trong tôi cứ hiện hữu những câu nói của Mẹ Teresa: Chúa chúng ta muốn tôi phải là một nữ tu tự do ẩn mình dưới sự nghèo khó của thập tự giá. Hôm nay tôi học được một bài học hay. Sự nghèo khổ của người nghèo thật là nghiệt ngã. Trong khi tìm kiếm một ngôi nhà, tay chân tôi đau nhức vì đi bộ. Tôi suy nghĩ, người nghèo còn chịu đựng sự nhức nhối bội phần hơn trong thể xác và linh hồn khi tìm kiếm một chỗ trú thân, thức ăn và sức khỏe. Tôi nghĩ về những bà sơ đã từng lưu trú ở đây và tôi quyết định đi theo con đường của họ. Hôm nay tôi đưa nhưng đứa trẻ về thăm nơi này và nghe anh kể tiếp những câu chuyện còn dang dở về những ký ức đã qua...”.
Sài chợt giật mình khi nghĩ lại những giấc mơ về Mẹ Teresa. Cô đã từng bảo chỉ cần có đức tin thì sẽ làm được những điều mình mong muốn.
Sài biết mình cũng là người có một đức tin như thế.








Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin