Bên dòng sông Cầu thơ mộng, giữa lòng thị xã Bắc Kạn xưa, nay thuộc phường Đức Xuân, tỉnh Thái Nguyên, có một cây cầu giản dị mà thân thuộc mang tên cầu Phà. Với người dân nơi đây, cây cầu gắn với một phần ký ức, một chứng nhân lặng lẽ soi bóng hơn một thế kỷ qua. Mỗi nhịp cầu không chỉ nối hai bờ, mà còn nối quá khứ với hiện tại, giữa bom đạn chiến tranh ngày cũ với hôm nay yên bình.
Tư liệu từ người Pháp về cây cầu trăm năm
Đầu thế kỷ XX, Bắc Kạn bước vào cơn lốc khai thác thuộc địa. Thực dân Pháp mở rộng Quốc lộ số 3, 3A, 3B, chiêu mộ và bắt phu từ khắp vùng xuôi ngược đưa lên xây đường, xây cầu. Xe quân sự, xe tải hạng nhẹ bắt đầu lăn bánh trên miền núi hiểm trở. Ở Thư viện Quốc gia Pháp vẫn còn một số tư liệu về quá trình xây dựng cây cầu này, cụ thể:
![]() |
| Lễ thông cầu Bắc Kạn (cầu Phà) năm 1985. Ảnh: Tư liệu |
Năm 1904, trong Bulletin administratif du Tonkin (Công báo Hành chính Bắc Kỳ, số 22, tr. 317), đã ghi: “Trên đường thuộc địa số 3, dự kiến xây dựng một cầu sắt qua sông Cầu ở Bắc Kạn, thay cho phà hiện có”.
Năm 1905, Travaux publics de l'Indochine. Rapport annuel (Công trình công chính Đông Dương, Báo cáo thường niên, 1905, tr. 42) viết: “Một cầu sắt, dài khoảng 60 mét, có mố xây bằng đá, đang hoàn tất trên sông Cầu tại Bắc Kạn”.
Năm 1906, Bulletin des Travaux Publics de l'Indochine (Tập san Công chính Đông Dương, 1906, tr. 118) xác nhận: “Cầu Bắc Kạn, vừa khánh thành, là công trình quan trọng của đường thuộc địa số 3. Khung thép nhập từ Pháp đặt trên trụ đá”.
Năm 1907, Annuaire général de l'Indochine (Niên giám Đông Dương, 1907, tr. 512) viết ngắn gọn: “Việc vượt sông Cầu tại Bắc Kạn nay được thực hiện bằng một cầu sắt”.
Như vậy, ít nhất từ 1905-1907, cầu Phà đã hiện diện như một mắt xích trọng yếu trong tuyến đường thuộc địa chiến lược Hà Nội - Thái Nguyên - Bắc Kạn - Cao Bằng (Route Coloniale n°3).
Không chỉ hiện diện trên bản đồ, cầu Phà còn có tên gọi kỹ thuật rõ ràng trong hệ thống thuộc địa. Trong tài liệu Projet de budget général (Dự thảo ngân sách chung của Toàn quyền Đông Dương) 1928-1931, có đoạn: “Construction d'un pont en Pigeaud type n°2 de 37m sur la rivière de Bac Kan”. Có nghĩa là: “Xây dựng một cây cầu kiểu Pigeaud loại số 2, dài 37 mét, bắc qua sông ở Bắc Kạn” (Pigeaud là tên gọi một dạng cầu thép lắp ghép tiêu chuẩn do kỹ sư Pigeaud thiết kế, thường dùng trong Đông Dương thời Pháp thuộc. type n°2: tức là kiểu số 2, tức phân hạng kỹ thuật loại cầu nhỏ/trung bình, thường 30-40m).
Báo Hà Thành ngọ báo, số 531 (13/5/1929), cũng thuật lại chuyến kinh lý của Thống sứ Bắc Kỳ Eugène Robin: “Buổi chiều quan Thống sứ quay trở về Ngân Sơn, đến cây số 205 thì thăm cầu Đỏ bằng sắt, rồi đi về Bắc Kạn. Ngài xét cái cầu Pigeaud bắc qua sông Cầu”.
Tên gọi Pigeaud vì thế gắn liền với cầu Phà trong tư liệu Pháp - một nhãn hiệu kỹ thuật, đồng thời là chứng cứ lịch sử.
Không chỉ xuất hiện trong báo cáo hành chính, cầu Phà còn đi vào văn chương. Hoàng Văn Trung - Phán sự Tòa Công sứ Bắc Kạn, trong Ba Bể du ký (Nam Phong tạp chí, số 55, tháng 1-1921) viết:
“Có con sông Cầu chảy qua, trên bắc cái cầu bằng phên nứa. Tuy gọi bằng phên nứa nhưng cầu cũng to và chắc chắn lắm, vậy mà cứ đến mùa mưa, nước lên to, chảy mạnh thì cầu dù chắc cũng phải đổ. Khi xưa, nhà nước đã làm một cái cầu bằng sắt, cột xây xi măng, chẳng được bao lâu cũng đổ. Thế mới biết thế nước mạnh nhường nào! Đến nay, hễ về mùa mưa thì lấy phà chở khách… cho nên gọi là cầu Phà, hay bến Phà là vậy”.
Những dòng chữ cách đây hơn một thế kỷ cho ta hình dung: nơi này từng chỉ là một bến phà, rồi đến cầu gỗ, cầu sắt, cầu xi măng… nhưng tên dân gian “cầu Phà” vẫn ở lại, bền bỉ như ký ức cộng đồng.
Dấu ấn Cách mạng Tháng Tám trên cầu Phà
Cầu Phà còn chứng kiến những ngày sôi sục của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Dưới nhịp cầu ấy, những bước chân cách mạng đã tiến về thị xã Bắc Kạn, buộc quân Nhật phải rút lui, mở ra một trang sử mới cho quê hương.
![]() |
| Cầu Phà bị bom Mỹ phá sập trong kháng chiến chống Mỹ. Ảnh: Tư liệu |
Trong hồi ký Ánh sáng đây rồi, ông Nông Văn Lạc ghi lại:
“Đến bờ sông qua cầu sắt dài - cầu Phà - xưa nay chưa biết, đi một đoạn thấy cái cây chặt đổ ngang đường. Ban chỉ huy họp lại, tôi báo cáo cho các đồng chí cùng biết việc lúc nãy gặp bọn quan Nhật, thái độ nó không hung hăng nữa nhưng chúng tôi cũng quyết định đêm nay ở phân tán, có canh gác cẩn thận, sáng mai lên đồn chúng tôi nhất trí ra yêu sách với ban chỉ huy Nhật là: Thu toàn bộ võ khí và quần áo nhà binh, đi kiểm tra các kho tàng và cơ quan, đưa vào đây một lực lượng bộ đội, yêu cầu quân Nhật phải rút sớm”.
Những dòng hồi ức ấy không chỉ khắc họa tinh thần quả cảm, quyết đoán của lực lượng cách mạng, mà còn cho thấy cầu Phà đã trở thành chứng nhân của một thắng lợi lớn, khởi đầu kỷ nguyên độc lập trên đất Bắc Kạn.
Năm 1949, trước khi rút khỏi Bắc Kạn, thực dân Pháp phá hủy nhiều đoạn đường, nhiều cây cầu, trong đó có cầu Phà - chiếc cầu quan trọng nhất trên tuyến(1).
Kháng chiến chống Mỹ, bom rơi ác liệt hơn. Ngày 17/10/1965, chỉ trong 50 phút, 36 lượt máy bay Mỹ đã ném 54 quả bom xuống khu vực cầu Phà, làm 29 người chết và bị thương, phá hủy 55 ngôi nhà, 3 tấn gạo, cùng 500 mét đường vào cầu. Ngày 19/12/1965, chúng tiếp tục đánh phá lần thứ hai.
Trong trận ấy, hai chiến sĩ Dương Văn Lập và Nguyễn Hữu Gần thuộc Đại đội 73 đã lấy thân mình làm giá súng cho đồng đội bắn trả máy bay(2). Hành động dũng cảm ấy mãi mãi khắc tên cầu Phà trong trang sử kháng chiến.
Từ 1965 trở đi, Quốc lộ số 3 liên tục bị đánh phá, trong đó cầu Phà là trọng điểm. Nhưng cán bộ, chiến sĩ và nhân dân vẫn kiên cường “Địch phá ngày, ta sửa đêm”, “Địch phá, ta đi”. Không quản hy sinh, họ bám cầu, bám phà, khắc phục hậu quả, giữ cho huyết mạch giao thông thông suốt ra tiền tuyến. Cầu Phà, từ đó, là biểu tượng của ý chí quật cường.
Năm 1985, cây cầu sắt thị trấn Bắc Kạn bắc qua sông Cầu đã được các lực lượng thi công của Sở Giao thông vận tải xây dựng và khánh thành. Cầu có chiều dài hơn 100 mét, rộng 4 mét; mặt cầu lát bằng ván gỗ tứ thiết; hai bên thành cầu có đường dành riêng cho người đi bộ rộng 1m. Cầu có trọng tải từ 8 - 10 tấn. Đây là chiếc cầu sắt dài nhất, rộng nhất, hiện đại nhất trên địa bàn của tỉnh Bắc Kạn trong thời kỳ này. Nhờ có cây cầu sắt, 100% các loại xe ô tô lưu thông qua sông cầu ở thị trấn Bắc Kạn về mùa mưa lũ đã bảo đảm thông suốt. Đến khi cầu Bắc Kạn 2 xây dựng, cầu Phà lặng lẽ khép lại sứ mệnh lịch sử, để lại phía sau bao lớp ký ức.
Xứng đáng là di tích lịch sử
Theo Luật Di sản Văn hóa, công trình gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu đủ điều kiện được công nhận di tích. Với hơn 120 năm tồn tại, nhiều lần tái thiết, gắn với kháng chiến và ký ức dân gian, cầu Phà hoàn toàn xứng đáng được xem xét lập hồ sơ xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh.
Ông Hà Hữu Nghị, nguyên Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện Bạch Thông - một người con gắn bó sâu nặng với mảnh đất này và là nhân chứng sống của bao thăng trầm lịch sử từng xúc động viết về cây cầu Phà với những vần thơ chất chứa ký ức và niềm tự hào:
Là cầu Phà từ khai sinh còn giữ lại
Như bảo tàng chứng tích trăm năm
Có thể nào quên khi nhìn về quá khứ
Vẫn vươn mình cùng cầu mới vượt sông
Bốn câu thơ mộc mạc nhưng đầy cảm xúc ấy không chỉ là lời tri ân một công trình giao thông, mà còn là biểu tượng sống động của lịch sử, của ký ức một thời, nơi cây cầu cũ vẫn lặng lẽ chứng kiến bao đổi thay của quê hương, song hành cùng cây cầu mới vươn mình nối nhịp đôi bờ.
![]() |
| Cầu Phà hiện nay. Ảnh: Đăng Hải |
Suốt hơn trăm năm qua, cầu Phà vẫn bền bỉ nằm ngang dòng sông Cầu, như một dấu ấn lặng thầm của lịch sử. Với những người rời xa quê hương, đó là hình ảnh gợi nỗi nhớ da diết; với người dân Bắc Kạn ngày trước, đó là phần ký ức không thể phai mờ. Âm thanh lanh canh của nhịp cầu sắt mỗi lần có bước chân đi qua đã trở thành quen thuộc, in sâu vào lòng người, như phản chiếu tuổi đời hơn thế kỷ của cây cầu trên mặt nước sông Cầu.
(1) Bắc Kạn lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954, NXB QĐND, 2001, tr.210
(2) Lịch sử Đảng bộ huyện Bạch Thông 1930-1975, Huyện ủy Bạch Thông xuất bản năm 1996










Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin