Đọc tập thơ "Lục bát xuân thầm" của Ngô Thúy Hà (NXB Hội Nhà văn năm 2025)
Tôi được đọc thơ Ngô Thúy Hà khoảng mười năm về trước. Hà là một cây bút xuất phát và trưởng thành từ câu lạc bộ thơ nhưng có những bước tiến ngoạn mục. Với loạt thơ ban đầu đăng trên các báo, tạp chí văn nghệ địa phương, thơ Hà đã chiếm được cảm tình của bạn đọc.
Khi một số tập thơ của Hà xuất bản, một nhà thơ kiêm nhà lý luận phê bình đã có nhận xét: "Nếu Ngô Thúy Hà xuất hiện vào những năm 30 của thế kỷ trước có thể đã được xếp hàng trong đội ngũ những nhà thơ trong phong trào Thơ mới". Lời nhận xét vui vui nhưng có ý đúng. Bởi thơ của Hà mang âm hưởng của Thơ mới (1932 - 1945) khá rõ nét. Không có gì lạ. Nhiều nhà thơ Việt Nam cũng đã từng ảnh hưởng trực tiếp, gián tiếp hoặc tiếp tục viết theo kiểu Thơ mới, có sự sáng tạo và vẫn được đón nhận khá nhiệt thành của độc giả.
![]() |
"Lục bát xuân thầm” là tập thơ thứ năm của Ngô Thúy Hà, sau các tập "Nắng đầu mùa", "Nắng dậy thì", "Hương cỏ đồng", "Âm thanh của núi". Hà đã nhiều lần đoạt giải cao trong các cuộc thi thơ của thành phố. Tập "Nắng dậy thì" đoạt giải C, Giải Văn học nghệ thuật của Ủy ban Nhân dân tỉnh Thái Nguyên (giai đoạn 2017 - 2021). Riêng về thể lục bát, Hà từng đoạt giải B lục bát Việt Nam.
Lần xuất bản này, tác giả chọn 60 bài lục bát thành một tập riêng. Người viết thơ lục bát trong cả nước không nhiều, ở địa phương càng hiếm hoi hơn. Thêm nữa, hiện nay không phải không có một số nhà thơ, nhà lí luận đang có xu hướng bỏ rơi thể thơ này, cho rằng lục bát không đủ sức chứa cho những ý tưởng hiện đại… nên có thể nói đây là một việc làm rất đáng trân trọng của tác giả.
Nhiều người biết, thơ lục bát dễ viết những khó hay. Khó hay vì phải tuân thủ niêm luật, vì sự quay đi trở lại của số chữ… Nói theo một trong nhiều định nghĩa của các nhà thi pháp hiện đại thế kỉ XX: "Thơ là trùng điệp" (trùng điệp ngữ nghĩa, trùng điệp âm thanh, trùng điệp hình ảnh…) thì lục bát cũng không nằm ngoài ý nghĩa ấy. Đó là những thủ pháp nghệ thuật có thể đưa thơ lục bát lên tầm cao, và ngược lại, trước sự non tay của tác giả, cũng có thể đẩy thơ lục bát vào sự nhàm chán.
Tuy nhiên, nếu một nhà thơ có cái nhìn sắc sảo, có tâm hồn nhạy cảm, có trái tim hòa nhịp với cuộc đời, với thiên nhiên, con người thì có thể hóa giải những khó khăn trên và tận dụng được những điểm mạnh của thể thơ này. Theo tôi, Ngô Thúy Hà đã ít nhiều làm được điều ấy.
Có thể ví "Lục bát xuân thầm" là một bức tranh thiên nhiên đẹp và buồn. Đẹp và buồn chính là hai yếu tố mĩ học luôn hiện diện trong văn chương nói chung và thơ nói riêng.
Thiên nhiên trong thơ Hà không quá đa dạng như ở một số các tác giả khác mà tập trung vào một số hình ảnh như trăng, hoa, sương, nắng, gió và đặc biệt là những hình ảnh mùa trong thiên nhiên, trời đất. Quá nửa số bài thơ trong tập là viết về mùa, về năm tháng trong năm, trong vòng quay vũ trụ hoặc có gợi nhắc đến những hình ảnh này.
Riêng về sự hiện diện của một seri mùa xuân trong tập với những "Xuân cũ, mới", "Mùa xuân lưng chừng núi", "Xuân tới", "Mùa xuân mỏng", "Lục bát xuân thầm", "Xuân thấm lời ru", "Thì thầm xuân"… đã như một tập hợp về mùa xuân, tạo nên một dấu son, một điểm nhấn cho cả tập. Cái tên trên bìa sách cũng là "Lục bát xuân thầm", dù vô tình hay hữu ý, đã giống như một tín hiệu về nội dung và nghệ thuật của tập thơ.
Như đã nói ở trên, thiên nhiên trong thơ Ngô Thúy Hà đẹp và buồn. Mùa xuân là mùa tươi đẹp nhất trong năm. Với nhiều nhà thơ khác khi viết về mùa xuân luôn là những vần thơ tươi đẹp và sáng rạng nhất. Nhưng với Ngô Thúy Hà thì vẻ đẹp ấy thường vương một chút buồn, nỗi buồn nhè nhẹ, vu vơ nhưng đau đáu phận người.
Các nhà lý luận thường nói "thơ là lý lịch", thì với Ngô Thúy Hà, điều ấy càng chính xác hơn. Giữa mùa xuân mà lòng vẫn ẩn khuất đâu đó dư âm của mùa đông cũ, một "cọng rơm khô" năm trước vẫn "cắn" vào thân phận:
Áo em hai vạt ngắn dần
Đếm dăm hạt nắng cứ ngằn ngặt vơi
Có mùa đông cũ xa xôi
Cọng rơm khô cắn vào tôi lạ lùng
(Xuân mới, cũ)
Những thi ảnh về cái buồn luôn thấp thoáng trong những bài thơ viết về mùa xuân của Hà. Nỗi buồn mang vẻ đẹp thẩm mĩ, khi thì được gửi vào một mùa hoa cải "ngây ngô", dang dở của một thuở hoa niên đầy khát khao và nuối tiếc: "Màu hoa cải chín dở chừng/Lời ru em mặn rơi từng nhớ thương" (Xuân thấm lời ru); lúc lại hóa vào một cánh chuồn chuồn ảo mờ trong tâm tưởng cùng nỗi nhớ nhung về một thời xa vắng không bao giờ trở lại: "Chuồn chuồn bay đỏ câu thơ/Nhớ ai mà cánh bây giờ còn phơi" (Lục bát xuân thầm).
Có những điều ấy, bởi mùa xuân đối với Ngô Thúy Hà không chỉ là mùa xuân của trời đất mà là mùa xuân của lòng người- "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ" (Nguyễn Du). Trong muôn cảnh sắc tươi đẹp của mùa xuân nhưng thơ Hà hầu như không hoặc rất ít có hình ảnh hoa đào khoe sắc, tiếng chim én ríu rít lưng trời…
Trong suốt tập thơ, người đọc chỉ luôn gặp sự thổn thức đầy thương cảm của trái tim tác giả trước mùa xuân. Đó là tiếng chim từ quy gọi bạn trong cô đơn:
Góc trời khản giọng từ quy
Cô đơn gọi bạn trăng thì cô đơn
(Hoa tháng ba)
Đó là những mùa xuân dang dở:
Màu hoa cải chín dở chừng
Lời ru em mặn rơi từng nhớ thương
Trăng rơi đẫm một góc vườn
(Xuân thấm lời ru)
Hoặc là những mùa xuân gượng gạo, âm thầm, pha nhiều nước mắt:
Mùa xuân vội trốn vào hoa
Thương em cắt mảnh trăng già làm vui
(Duyên)
Nói vậy, không phải tác giả không yêu mùa xuân, mà yêu mùa xuân từ một góc nhìn khác, một cảm thức khác.
Tuy vậy, đôi khi, Hà cũng cảm nhận được niềm vui, niềm hạnh phúc của mùa xuân khi đến rất gần với mình, để có thể làm vơi đi những "vết bùn khô cũ" của kiếp người:
Mẹ ơi xuân đã đến nhà
Cành mai trắng thẹn một tà áo buông
Nắng ôm cây trúc cuối vườn
Vết bùn khô cũ làm khôn xuân thì
(Xuân tới)
Trong các bài thơ về mùa xuân thì "Mùa xuân lưng chừng núi" là bài thơ mang vẻ lạc quan hơn cả. Có lẽ do tình mẫu tử và vẻ đẹp tươi sáng của núi non quê hương đã phần nào "đánh thức" và an ủi tâm hồn nhà thơ chăng:
Mẹ tôi trỉa nắng đầu nương
Trỉa mùa xuân để xuân vương vấn đào
Sương thì ướt, núi thì cao
Mùa xuân ướt mẹ hoa đào ướt con
Tháng Giêng mưa ướt chiều hôm
Quê tôi xuân chín ngát vườn cỏ cây
(Mùa xuân lưng chừng núi)
Các hình ảnh về mùa hạ, mùa thu, mùa đông trong tập thơ không nhiều như mùa xuân và cũng thường nghiêng về hoài niệm.
Một mùa hè gợi nhớ về những kí ức xa xôi:
Hạ về, thương cũng thế thôi
Chùm me chua cả tiếng cười góc quê
(Thương màu nắng hạ)
Một mùa thu với những khắc khoải, buồn đau trĩu nặng đời người:
Chị mòn vai gánh chiều thu
Để cây rơm trĩu lời ru nửa chừng
(Giọt heo may)
Một mùa đông nhiều nước mắt:
Hình như mưa khóc sau nhà
Ướt bông cúc tím vương tà áo em
(Nơi ấy mùa đông)
Mùa đông là mùa buồn bã, u ám nhất trong năm. Vì thế, trong thơ Ngô Thúy Hà, mùa đông thường gắn với thân phận con người. Bài thơ "nửa thời trăng khuyết", tác giả đã dựng lên hình tượng người chị - và có thể cũng chính là phận mình - một người đã nửa đời "đi tìm mùa thu", đã từng "chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền" (thơ Hữu Thỉnh) và phải nhận vào mình bao tủi hờn, đổ vỡ:
Mùa đông hắt trắng cửa sau
Chị gom trăng vỡ đổ đâu cho đầy
(Nửa thời trăng khuyết)
Các hình ảnh trăng trong thơ Ngô Thúy Hà mang nhiều vẻ mộng mị, biến ảo:
Góc trời khô một cành xoan
Bóng trăng vàng… bóng trăng vàng… bóng trăng…
(Hôm qua của chị)
Dễ nhận ra đây là lối viết được Hà tiếp nhận và biến đổi từ thơ lục bát của Nguyễn Bính (Cánh buồm nâu… cánh buồm nâu… cánh buồm) mà người đọc có thể hoàn toàn đồng cảm. Một bức họa bằng thơ với những sắc màu tương phản. Đọc câu thơ, như được nhẹ nhàng ngước lên bầu trời, và không chỉ tiếp nhận bằng thị giác mà sâu xa hơn là bằng cảm giác về hình ảnh một bóng trăng vàng mờ dần… mờ dần… bên góc trời cùng một cành xoan khô hiu hắt.
Cũng như nhiều thi ảnh khác, trăng trong thơ Ngô Thúy Hà phảng phất buồn. Hà có những câu thơ trăng làm lây buồn sang mọi người: "Tháng Ba mộc mạc sau vườn/Đánh rơi trăng, đánh rơi buồn vào nhau" (Gánh tháng Ba), "Ngoài hiên trăng cũ đã mòn/Xước đôi má lúm vẫn còn ngày xưa" (Trăng muộn),"Nửa vầng trăng rớt chênh vênh/ Kéo lưng áo mẹ chia thành dở dang" (Trăng hạ tuần)…
![]() |
| Tác giả Ngô Thúy Hà |
Rồi hoa, sương, nắng, gió trong thơ Ngô Thúy Hà cũng không chỉ là thiên nhiên thuần túy mà là hoa, là sương, là nắng, là gió của tâm hồn con người. Hoa mai thì "Cành mai trắng thẹn một tà áo buông" (Xuân tới), hoa cải thì "Chùm hoa cải trắng vì nhau/Heo may ai cắt mà khâu tháng Mười" (Hoa đồng nội), còn hoa sim: "Hoa sim tím vắt cạn hồn vào mưa" (Hôm qua), Hoa ban: "Cành hoa ban trắng nhỡ thì trong ai" (Mùa hoa ban ở lại).
Ngô Thúy Hà rất sính dùng từ "nhỡ thì" (hoa nhỡ thì, nắng nhỡ thì…), chúng như những cụm từ - những thi ảnh của riêng mình. Thú vị nhất là khi Hà đã tưởng tượng, sáng tạo ra một loài hoa không có thật: Hoa nhỡ thì. Loài hoa ấy không có trong đời, nhưng nó vẫn hằng hiện hữu trong nỗi buồn cô liêu của trái tim phụ nữ. Vì vậy, nó không thể là loài hoa ngạt ngào hương sắc, cũng không thể là loài hoa dịu dàng,… Nó là loài hoa khát vọng trong cô đơn, là tiếng vọng khó nguôi của một kiếp người không may mắn, nên mới: "Gọi ai rát một mảnh trời tháng Ba" (Hoa nhỡ thì).
Nắng, mưa, sương, gió trong thơ Ngô Thúy Hà cũng vậy, luôn thấm đẫm hồn người: "Câu ca dao đọng trong mưa/Vướng trên cành khế giả vờ xa xăm" (Trăng cạn), "Bây giờ nắng ngả vào sương/Cho hoa nở thẹn cuối vườn nhà ai" (Hôm qua của chị), "Gió mùa thổi lệch đôi vai/Bờ lau cất giữ nghiêng dài lối quê"… Bằng những thi ảnh đẹp và buồn, không phô diễn, không bi lụy, Ngô Thúy Hà đã tạo ra những nỗi đau thầm kín, dịu dàng như vậy.
Có một nhà thơ đã nói: "Nỗi đau nào hát được thành thơ thì nỗi đau đã vơi đi một nửa". Ngô Thúy Hà đã biết cất lên tiếng hát trái tim cô đơn thi sĩ của mình để sưởi ấm lòng người và sưởi ấm lòng mình.
Cũng như bốn tập thơ đã xuất bản, "Lục bát xuân thầm" vẫn tiếp tục giữ được những nét đẹp cổ điển của Thơ mới (1932 - 1945). Cái tôi cá nhân được đề cao; những cảm xúc đa chiều, tự nhiên và chân thực luôn là tinh thần chủ đạo của tập thơ.
Một điểm đáng nói, tuy là cây bút mới, nhưng Ngô Thúy Hà đã ít nhiều có sự lưu ý trong cách tân thơ lục bát. Các biện pháp tu từ được sử dụng khá hiệu quả, đã tạo nên những đoạn thơ, câu thơ có sức cảm hóa người đọc:
Chùm hoa cải trắng vì nhau
Heo may ai cắt mà khâu tháng Mười
Bố vừa nhặt rét đem phơi
Nắng hanh khô vịn bố tôi ngoài đồng
(Hoa đồng nội)
Hay:
Tôi về rót rượu vào thơ
Uống say cả chữ mà chưa ngấm lời
(Hoa đồng nội)
Tuy chưa nhiều nhưng đôi khi Ngô Thúy Hà có những câu thơ gần gũi với ca dao, nói chính xác hơn là sáng tạo từ ca dao:
Mỗi lần mưa chạy theo chân
Bóng ai tím ngọn rau răm dại vườn
(Hôm qua của chị)
Đó là câu thơ mô tả cuộc đời người chị của tác giả mà hẳn là có một số phận hẩm hiu, nhiều oan khuất. Câu thơ làm người đọc gợi nhớ lại câu ca dao "Gió đưa cây cải về trời/rau răm ở lại chịu đời đắng cay". Một cách viết có tính liên văn bản, ý tại ngôn ngoại, người đọc phải có tâm thế đồng sáng tạo để có thể hiểu sâu sắc hơn thân phận nhân vật trong bài thơ.
Tựu trung, cũng như một số tác giả khác, Ngô Thúy Hà chưa thể tránh khỏi những điểm yếu trong tập thơ, như sự trùng lặp, sự vênh lệch trong một số nghĩa từ, hình ảnh… Nhưng nhìn chung, thơ Hà đã có sự vượt lên so với các tập trước. Đặc biệt là có nhiều bài thơ, câu thơ trong tập đã bắt đầu bước vào cánh cửa của thơ hiện đại trong sự liên kết các kí hiệu ngôn từ, tạo ra những trùng điệp, những khoảng trống thẩm mĩ… Cái quý nhất trong thơ lục bát của Ngô Thúy Hà là không chối bỏ truyền thống mà theo hướng làm mới, hiện đại hóa truyền thống. Phải chăng đó là bước đi đúng đắn của thơ ở địa phương nói riêng và thơ cả nước nói chung.
Hy vọng, "Lục bát xuân thầm" đến tay bạn đọc như sự đón nhận một vườn hoa giàu hương sắc.









Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin