Cứ vào dịp những ngày lễ lớn của đất nước, ông Nguyễn Minh Sơn, ở Tổ dân phố số 69, phường Phan Đình Phùng lại bồi hồi. Cầm súng lên đường khi tóc còn xanh, hôm nay trên đầu, tóc đã phơ phơ bạc, nhưng trong từng lời kể của ông-một người lính đặc công, ký ức thời trẻ trai rực lửa vẫn còn nóng hổi. Nóng như những trận đánh công đồn, như quả đạn B40 lúc ông bắn phá mục tiêu rồi bị thương trước ngày toàn thắng.
![]() |
| Ông Sơn (bên trái) và ông Thái thường gặp nhau ôn lại những kỷ niệm chiến trường. |
Gác bút mực ôm súng công đồn
Tháng 5/1971, 21 tuổi ông Nguyễn Minh Sơn khoác lên mình chiếc áo lính ông tới Sơn Tây huấn luyện khóa đặc công đặc biệt. Ông được dạy những kỹ, chiến thuật và những kỹ năng tình báo…
Khoác ba lô hành quân vào miền Đông Nam Bộ. Mùa mưa tháng 5/1973 đơn vị ông lưu lại Bình Phước làm quen với địa hình, tới tháng 8 mới tiếp tục hành quân về miền Tây. Đơn vị ông là Đại đội 13 - Đoàn đặc công Vàm Cỏ, Quân khu 8, với địa bàn hoạt động rất rộng, các vùng Đồng Tháp, Long An, Vĩnh Long, Bến Tre...
Sông nước mênh mông, đặc công miền Tây thiếu thốn đủ đường. Mùa mưa ông cùng đồng đội phải làm lán treo ở rừng tràm. Khan hiếm nước ngọt, mọi người phải làm “giếng treo”, bằng cách lấy dây leo đan thành cái giỏ to rồi cho túi bơi bằng ni lông vào bên trong rồi treo cao lên để trữ nước.
Ông nhíu mày: Cái túi đó quan trọng lắm! Ngoài làm túi bơi, vào mùa mưa chết không có chỗ chôn, túi còn dùng để bọc thây rồi treo lên cao phòng thú vật đến phá, tới mùa khô mới mang chôn.
Vừa lo sinh hoạt, vừa điều tra để tổ chức đánh, lính đặc công gan dạ coi vào trận đánh nhẹ như lông hồng. Mục tiêu đánh của Đại đội 13 là các mục tiêu như đồn bốt, kho lương… của địch. Những ngày có trăng không đánh đồn được, lại chuyển đánh phá tàu giặc trên sông.
“Lính nhà giời”
Để có chắc thắng phải điều tra thật kỹ mục tiêu, đường đi, các vị trí quan trọng… rồi lên phương án, chuẩn bị kỹ càng, mới lên đường. Đặc công thường chỉ đánh địch lúc đêm khuya, đánh bất thần để khủng bố tinh thần địch, hoặc đánh để địch bị tiêu hao…
Lúc đầu địch gọi đặc công là “lính nhà giời”, như “không quân đường bộ”, chả thấy gì nhưng thủ pháo, lựu đạn nổ ầm ầm. Bị đánh nhiều, sau này địch cảnh giác làm đồn rất kiên cố.
Trận chi khu cảnh sát Đức Hòa sau khi hạ tên lính trên chòi canh, đơn vị ông một mũi đánh vào cửa chính, 3 mũi còn lại phải trèo tường và cắt rào vào. Đấy là mùa khô đầu tháng 10 năm 1974, doanh trại địch có 3 dãy nhà và 6 lô cốt. Ngày địch ra ngoài lục soát kiếm ăn, tối về ngủ. Bình thường đồn này có khoảng gần 70 tên, nhưng hôm đấy chuẩn bị càn chúng tăng cường thêm một trung đội cảnh sát dã chiến. Trời tối như mực, bò được vào vị trí đánh, thấy địch đông quá, nhưng đơn vị vẫn quyết tâm tiêu diệt. Ông Sơn cùng đồng đội áp sát phía ngoài, địch ở bên trên hút thuốc, gạt tàn rơi vào vai bỏng rát nhưng vẫn phải cắn răng chịu. 2h đêm các mũi đồng loại nổ súng.
“Trận ấy 31 người đánh hơn 100 tên, "thằng" Tô Thái - ông Thái hiện làm nghề giò chả ở cạnh cầu Gia Bẩy - dùng B41 bắn rụng luôn cả chòi canh. Một người khác ôm AK tỉa gọn 4 lính địch, thế là đồng loạt tiến công. Trận đấy diệt được 63 tên, hơn chục tên bị thương”, ông Sơn tự hào nhớ lại.
Đơn vị đánh khoảng 15 - 16 trận, mỗi trận có những điểm khó khác nhau nhưng đều toàn thắng.
Má Sáu và những chuyện cảm động
![]() |
| Các đồng đội trong đơn vị ông Nguyễn Minh Sơn (ảnh chụp năm 1974). |
Chiến tranh biến con người thành sắt đá, nhưng chiến tranh cũng đầy ắp những tình người, che chở, đùm bọc. Ông Sơn đưa tôi xem những tập thơ, tập truyện ông viết về đời lính. Trầm ngâm mãi, ông nói: Kỷ niệm thì nhiều lắm, nhưng tôi nhớ nhất là gia đình má Sáu… Không có má, có đồng đội chắc tôi không còn sống để trở về.
Vào đơn vị ông Sơn được tổ chức gửi nằm vùng ở gia đình má Sáu, Đức Hòa (Long An). Gia đình coi ông như con ruột. Má gọi ông là thằng Hai Trung - con thứ hai trong nhà (cũng là bí danh của ông). Ông coi má như mẹ và Tư Sữa cùng các em như em gái. Ngày ngày ông tới chợ Đức Hòa vào vai người bốc vác, sẩm tối mới về nhà. Lúc rảnh ông lại đi phát bờ, làm cỏ lúa và những lúc ấy ông cũng được mọi người dạy giọng Nam Bộ vì nhỡ ông để lộ giọng Bắc ra là chết chắc.
Nắm được tình hình, được má và các em hậu thuẫn, ông cùng đồng đội đã có những cách đánh táo bạo. Có bận tụi ông giả làm dân ăn nhậu rồi tiện thể nhân lúc địch không cảnh giác mà áp sát giết ngay lính gác cổng, dùng súng giảm thanh bắn chết lính trên chòi canh, rồi tiến vào giết địch.
Ngày ông tạm biệt gia đình để tiếp tục nhiệm vụ mới ở HC3 (hậu cứ), ai cũng bịn rịn, rưng rưng. Riêng má Sáu không khóc, chỉ nói: Thằng Hai ốm lắm, nhớ ăn nhiều còn có sức mà cầm súng.
Ngoài chuyện về má Sáu… thì về tình đồng đội ông Sơn cũng chẳng thể nguôi quên. Ngày 16-4, đơn vị ông cùng nhiều đơn vị đặc công khác sáp nhập thành Lữ đặc công Biệt động 316 (500 - 600 quân), hòa vào những đoàn quân như vũ bão tiến về Sài Gòn.
Đêm 29-4, ông bị thương ở cầu Rạch Chiếc, cửa ngõ phía Đông Sài Gòn khi ôm B40 bắn phá được mục tiêu. Lúc đó ông vừa bắn hạ vị trí có khẩu đại liên của địch, thì địch phản pháo, ông gục xuống bất tỉnh. Đồng đội đi yểm trợ tưởng ông chết, nhanh chóng rút lui.
Cũng may, không thấy bạn nên ông Thái đi tìm và gặp ông Sơn lúc vừa tỉnh lại. Đạn bắn rợp trời. Ông Sơn thều thào: “Mày ra đi, chết cả hai phí lắm!”. “Thái Nguyên còn tao với mày, chết thì cùng chết!”- ông Thái dứt khoát. Rồi ông cõng bạn ra ngoài, giao cho quân y mang về bệnh viện cứu chữa. Trên người ông Sơn găm 33 mạnh đạn, trong đó có 2 mảnh trong đầu. Gần 100 ngày mê man, ông Sơn mới tỉnh. Sau đó được đưa ra Bắc an dưỡng. Tháng 9/1976 ông ra quân với thương tật ¼, nhiễm chất độc da cam 71%.
Năm 1978, ông thăm gia đình má Sáu. Nhìn thấy ông ai cũng vui mừng. Riêng má như chết lặng, đôi mắt già đẫm lệ: “Trời phật ơi phải thằng Hai không đó! Mi vẫn còn sống hả con?”. Rồi má vừa rờ những vết thương của ông vừa khóc.
Trước khi ông tạm biệt gia đình. Má Sáu giữ ông: Thằng Hai ở lại đây lấy con Sáu Lặc - con gái thứ sáu của má mới hơn 20 tuổi, da trắng mịn, tháo vát. Ông Sơn phải nói khéo mãi, má mới đồng ý để ông đi...









Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin