Khu vực tư nhân - 10 năm đồng hành phòng, chống HIV/AIDS

Theo Tiengchuong.vn 17:06, 24/01/2023

Những năm qua, khu vực tư nhân tham gia khá sâu rộng vào công tác phòng, chống HIV/AIDS tại Việt Nam, giúp tăng khả năng tiếp cận của người sử dụng các dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS, đồng thời bảo đảm bền vững các kết quả phòng, chống HIV/AIDS.

Tư vấn điều trị ARV cho người nhiễm HIV. Ảnh: Lan Anh

Tạo điều kiện để khu vực tư nhân tham gia phòng, chống HIV/AIDS

Khu vực tư nhân bao gồm các doanh nghiệp xã hội trong nước, các doanh nghiệp nhỏ, vừa và lớn hoạt động trong lĩnh vực chính thức và phi chính thức như các công ty đa quốc gia, các công ty trong và ngoài nước kinh doanh về dược phẩm, trang thiết bị y tế, trí tuệ nhân tạo, truyền thông xã hội. Các doanh nghiệp thương mại kinh doanh hàng hóa, dịch vụ với mục đích tạo thu nhập và góp phần giúp tăng trưởng bền vững cho doanh nghiệp xã hội, các tổ chức phi chính phủ và tổ chức cộng đồng.

Khu vực tư nhân đã phát triển vai trò như nhà cung cấp hàng hóa, với việc sản xuất, phân phối và bán bao cao su, bơm kim tiêm và hiện đang tham gia tích cực trong việc cung cấp và đa dạng hóa các sinh phẩm xét nghiệm HIV (test nhanh và tự test), thuốc dự phòng phơi nhiễm HIV (PrEP), các hoat động tư vấn, nghiên cứu, và vận động chính sách.

PGS. TS. Phan Thị Thu Hương, Cục trưởng Cục Phòng, chống HIV/AIDS (Bộ Y tế) cho biết, trong thời gian qua, khu vực tư nhân đã đóng vai trò quan trọng trong việc gia tăng khả năng tiếp cận các sản phẩm và dịch vụ HIV cho cộng đồng của các nhóm nguy cơ cao nhất
Nhóm nguy cơ cao lây nhiễm HIV trong cộng đồng là những người nam quan hệ tình dục đồng giới (MSM), chuyển giới, bán dâm, tiêm chích ma túy và bạn tình cũng như gia đình của họ. Đáng lưu ý, trong thời gian gần đây tỉ lệ những người nhiễm HIV gia tăng trong nhóm người trẻ tuổi, thanh niên trẻ, và công nhân làm việc trong các khu công nghiệp…

Trải qua 10 năm với nhiều nỗ lực không ngừng, Chính phủ luôn ghi nhận vai trò quan trọng của khu vực tư nhân trong các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS. Thông qua việc hỗ trợ trong chính sách, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược quốc gia chấm dứt dịch bệnh AIDS vào năm 2030 và Quốc hội thông qua Luật Phòng, chống HIV/AIDS sửa đổi.

Trong đó, có các chính sách và giải pháp về đa dạng nguồn lực tài chính cho chương trình HIV; tăng cường sự tham gia đóng góp và đầu tư của khu vực tư nhân trong chương trình HIV/AIDS; mở rộng cung cấp dịch vụ xét nghiệm HIV, điều trị dự phòng trước và sau phơi nhiễm là một phần trong các nỗ lực ứng phó với HIV…

Trong Kế hoạch 2129/2022/KH-BYT của Bộ Y tế ban hành mới đây về Tăng cường sự tham gia của khu vực tư nhân trong chương trình phòng, chống HIV/AIDS, thảo luận cơ chế hợp tác triển khai kế hoạch và thúc đẩy phối hợp công - tư mạnh mẽ trong những năm tới cũng cho thấy Chính phủ đang tiếp tục tạo điều kiện để khu vực tư nhân tiếp tục tham gia vào công tác phòng chống HIV/AIDS.

Kế hoạch này là hướng dẫn toàn diện của quốc gia chỉ đạo sự tham gia của khu vực tư nhân trong chương trình HIV nhằm hỗ trợ triển khai Chiến lược Chấm dứt dịch bệnh AIDS của Chính phủ Việt Nam vào năm 2030; cung cấp các chỉ số đo lường chính và lộ trình thúc đẩy sự tham gia và đầu tư của khu vực tư nhân.
Nhiều kết quả ấn tượng trong công tác phòng, chống HIV/AIDS

Trong hơn 10 năm qua, nhờ những nỗ lực không ngừng nghỉ trong công tác phòng, chống HIV/AIDS, Việt Nam đã liên tục đạt ba giảm: Giảm số người mới nhiễm HIV, giảm số chuyển sang AIDS và giảm số tử vong liên quan đến HIV/AIDS; kiểm soát tỉ lệ nhiễm HIV trong cộng đồng dưới 0,3%. Đây là những kết quả hết sức ấn tượng trong công tác phòng, chống HIV/AIDS.

Trong bối cảnh mới, công tác phòng, chống HIV/AIDS đã có những thay đổi nhằm đáp ứng tình hình dịch tễ HIV/AIDS. Cụ thể, đó là sự cần thiết phát triển các phương pháp can thiệp dự phòng mới, như điều trị dự phòng trước phơi nhiễm bằng thuốc kháng HIV cho các nhóm nguy cơ lây nhiễm HIV cao, mở rộng các phương thức xét nghiệm HIV, mở rộng chương trình điều trị thuốc kháng HIV nhằm làm giảm lượng virus HIV trong máu đến ngưỡng không lây truyền HIV cho người khác.

Tuy nhiên, tình hình lây nhiễm HIV trong nhóm quan hệ tình dục đồng giới nam, nhóm vợ, bạn tình của người nhiễm HIV tăng nhanh, trong khi nhóm này khó nhận dạng, khó tiếp cận do kỳ thị. Do đó, cần thay đổi, đa dạng các phương pháp, mô hình để tăng sự tiếp cận và sử dụng dịch vụ dự phòng HIV trong nhóm có hành vi nguy cơ.

Đối với chương trình phòng, chống HIV/AIDS tại Việt Nam, khu vực tư nhân đã tham gia đầu tư và cung cấp dịch vụ, đóng góp đáng kể nguồn lực tài chính cho phòng, chống HIV/AIDS thời gian vừa qua. Tổng kinh phí khu vực tư nhân cho Chương trình phòng, chống HIV/AIDS giai đoạn 2013-2020 ước khoảng 258 tỷ đồng, chiếm 1,36% tổng chi cho HIV/AIDS.

Để bảo đảm nguồn lực tài chính nhằm kết thúc bệnh dịch AIDS vào năm 2030 trong bối cảnh nguồn viện trợ quốc tế đang cắt giảm nhanh, tự chủ các nguồn lực tài chính trong nước thông qua huy động các nguồn lực đầu tư và thế mạnh cung cấp dịch vụ của khu vực tư nhân cho công tác phòng, chống HIV/AIDS là một ưu tiên bên cạnh việc vận động, huy động nguồn ngân sách nhà nước trung ương và địa phương, nguồn quỹ bảo hiểm y tế (BHYT).

Bên cạnh đó, các giải pháp tăng cường huy động các nguồn xã hội hóa từ người sử dụng dịch vụ, các cá nhân, tổ chức và khu vực tư nhân cần được triền khai và mở rộng nhằm duy trì cung cấp bền vững dịch vụ dự phòng, chăm sóc và điều trị HIV.

Những thế mạnh của khu vực tư nhân trong phòng, chống HIV/AIDS

Việc tham gia vào công tác phòng chống HIV/AIDS của khu vực tư nhân mang lại nhiều thế mạnh, góp phần bảo mật và khả năng tiếp cận. Bởi mặc dù phải trả phí cho dịch vụ và thuốc men, nhiều người nhiễm HIV/các nhóm nguy cơ cao vẫn chọn khu vực tư nhân để điều trị vì tính bảo mật, riêng tư, khả năng tiếp cận dễ dàng, thời gian mở cửa linh hoạt, ít thủ tục hành chính, thời gian chờ đợi ít, cán bộ y tế thân thiện, ít phán xét, tôn trọng bảo mật thông tin và danh tính của người bệnh.

Trên thực tế khi chuyển đổi sang điều trị thuốc kháng HIV nguồn quỹ BHYT, ước tính 8-10% người bệnh lựa chọn điều trị tại các cơ sở điều trị HIV/AIDS tư nhân. Trong khi đó, ước tính 5% người sống chung với HIV muốn tự trả tiền túi cho các dịch vụ ART tại phòng khám tư. Những khách hàng ART này lựa chọn cơ sở y tế tư nhân vì lý do đây là nơi cung cấp dich vụ an toàn cho một bộ phận không nhỏ người nhiễm HIV còn lo ngại kỳ thị và không muốn bộc lộ danh tính.

Một trong những thế mạnh nữa là tính thân thiện và đang dạng hóa mô hình cung cấp dịch vụ. Với khả năng dễ tiếp cận với nhóm nguy cơ cao khu vực tư nhân có thể có những đóng góp quan trọng và hiệu quả trong nhiều chương trình phòng chống và điều trị HIV/AIDS thông qua tiếp cận và xét nghiệm, chuyển gửi tới các dịch vụ HIV/AIDS bao gồm xét nghiệm, PrEP, nPEP, ART, bệnh lây nhiễm qua đường tình dục, quản lý viêm gan virus, chăm sóc khẳng định giới tính, can thiệp sử dụng chất và chăm sóc sức khỏe tâm thần.

Các mô hình và hình thức cung cấp hàng hóa và dịch vụ liên quan đến HIV đang được mở rộng và đa dạng hóa với sự tham gia của các phòng khám tư nhân, phòng khám tư nhân do cộng đồng làm chủ, các phòng khám dịch vụ thân thiện, tổ chức dựa vào cộng đồng, các doạnh nghiệp xã hội và các nhà thuốc để đáp ứng các lựa chọn của khách hàng như bán bao cao su, bơm kim tiêm, cung cấp sinh phẩm tự xét nghiệm HIV và tư vấn chuyển gửi khách hàng tiếp cận các dịch vụ PrEP, PEP…

Bên cạnh việc cung cấp các dịch vụ về HIV, khu vực tư nhân tham gia một cách đáng kể trong chẩn đoán và điều trị STI. Các cơ sở y tế cung cấp nhiều dịch vụ từ tư vấn, xét nghiệm, chẩn đoán, điều trị. Đồng thời, khu vực tư nhân cũng cho thấy họ có năng lực và khả năng thực hiện có hiệu quả trong các trường hợp điều trị STI thông thường. Khu vực tư nhân có thể tham gia cung cấp được nhiều lĩnh vực hơn hơn nữa nếu họ được đào tạo, tăng cường năng lực và có được những cơ chế khuyến khích phù hợp.

Việc khu vực tư nhân tham gia phòng chống HIV cũng đã cho thấy tính sẵn sàng và thủ tục đơn giản trong cung cấp dịch vụ. Dịch vụ khám chữa bệnh và cung cấp các dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS có thể thực hiện bất kỳ thời gian nào; Thủ tục tiếp cận trong khám chữa bệnh tại các phòng khám tư nhân đơn giản. Rất nhiều phòng khám hiện nay đã ký hợp đồng khám, chữa bệnh BHYT nên không có sự khác biệt về chất lượng dịch vụ giữa phòng khám của khu vực tư nhân và phòng khám của nhà nước…

Tăng cường mở rộng các lĩnh vực tiềm năng

Bên cạnh các hoạt động khu vực tư nhân của các doanh nghiệp nhỏ, vừa và lớn, phải kể đến sự hình thành và phát triển của nhóm cộng đồng. Đặc biệt, nhóm này đã có sự chuyển đổi cơ chế hoạt động từ các nhóm cộng đồng phụ thuộc thuần túy vào kinh phí tài trợ sang mô hình tự chủ, là doanh nghiêp xã hội, phòng khám tư nhân tạo thu nhập để có thể tái đầu tư vào các lĩnh vực họ đang hoạt động.

Cụ thể, như dự phòng, xét nghiệm HIV, điều trị dự phòng trước và sau phơi nhiễm HIV, bệnh lây nhiễm qua đường tình dục, xét nghiệm và điều trị viêm gan virus, dịch vụ tự xét nghiệm, chăm sóc và điều trị cho những người sống chung với HIV…

Ngoài ra, còn có một số khu vực tư nhân đang tham gia dưới hình thức kí hợp đồng với cơ sở y tế nhà nước và các dự án để tăng cường tính bền vững trong cung cấp các dịch vụ phòng, chống HIV.

Các hàng hóa và dịch vụ của khu vực tư nhân tạo nên phương pháp tiếp cận thị trường tổng thể (TMA) nhằm đáp ứng các nhu cầu và sở thích đa dạng của cộng đồng đích và người sống chung với HIV, từ đó có thể tăng tỉ lệ cộng đồng đích và người sống chung với HIV tham gia vào công tác phòng ngừa, xét nghiệm và điều trị.

Đại diện Cục Phòng, chống HIV/AIDS (Bộ Y tế) cho biết, trong thời gian tới các lĩnh vực tiềm năng khu vực tư nhân có thể mở rộng để tiến tới đạt được các mục tiêu quốc gia trong phòng, chống HIV/AIDS bao gồm: Thứ nhất, lĩnh vực truyền thông tạo cầu, như phát sóng, quảng bá sản phẩm và dịch vụ, phát triển các ứng dụng, nền tảng đặt dịch vụ, và sử dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo cho tiếp thị và truyền thông, tổ chức các sự kiện.

Thứ hai, tiếp cận và tư vấn tiếp cận và sử dụng dịch vụ HIV; Xét nghiệm HIV và bệnh lây nhiễm qua đường tình dục: Đăng ký sản phẩm; Giảm giá và khuyến mại sản phẩm; Tiếp thị và quảng cáo; Phát triển mạng lưới cung ứng và phân phối, cung cấp dịch vụ xét nghiệm HIV và bệnh lây nhiễm qua đường tình dục, tự xét nghiệm HIV.

Thứ ba, dịch vụ dự phòng và điều trị PrEP, nPEP: Đăng ký và phân phối sản phẩm, Giảm giá sản phẩm; Cho/biếu/tặng sản phẩm; Cung cấp dịch vụ PrEP.

Thứ tư, chăm sóc và điều trị HIV: Đăng ký điều trị ARV và nhiễm trùng cơ hội; Giảm giá sản phẩm; Cho/biếu/tặng sản phẩm; Cung cấp dịch vụ ART.

Thứ năm, phát triển thị trường bao cao su và chất bôi trơn, bơm kim tiêm: Sản xuất và đăng ký sản phẩm, Tiếp thị và quảng cáo, Giảm giá và tặng sản phẩm, Xây dựng và phát triển mạng lưới phân phối.

Thứ sáu, phát triển các phòng khám tư nhân do cộng đồng/người sống chung với HIV làm chủ cung cấp dịch vụ thân thiện chăm sóc sức khỏe ban đầu và HIV: mở các phòng khám đa khoa, phòng khám nội nhằm cung cấp các dịch vụ toàn diện cho khách hàng.

Thứ bẩy, đào tạo và củng cố năng lực cho người cung cấp dịch vụ sức khỏe (chuyên nghiệp và không chuyên): Cung cấp hỗ trợ các đào tạo, hội thảo giáo dục và cố vấn trước và trong khi cung cấp dịch vụ.

Thứ tám, hệ thống thông tin y tế và các công cụ hệ thống y tế kỹ thuật số: Phát triển bền vững các công cụ dữ liệu/kỹ thuật số cho phép báo cáo, thu thập, sử dụng và hiển thị dữ liệu tốt hơn; Tham gia các hoạt động nghiên cứu, cung cấp bằng chứng nhằm vận động, thay đổi chính sách…

Với nền kinh tế đang ngày càng phát triển và sự quan tâm ngày càng gia tăng của khu vực tư nhân cho thấy những tín hiệu rất tích cực trong công tác phòng, chống HIV/AIDS. Đây cũng là sự thúc đẩy đối với việc phát triển của các khu vực tư nhân, tác động lớn hơn thông qua các hoạt động kinh doanh, các đối tác tư nhân có đủ năng lực để đóng vai trò lớn hơn nữa cho công tác phòng chống HIV, giúp bảo đảm tài chính cho công tác phòng, chống HIV và bảo đảm bền vững các kết quả phòng, chống HIV/AIDS.