Trong bối cảnh nền nông nghiệp đang đối mặt với nhiều thách thức, trong đó có việc tăng chi phí đầu vào và suy giảm chất lượng đất, việc sử dụng phân bón hữu cơ trở thành một giải pháp bền vững. Tận dụng nguồn phế phẩm nông nghiệp để sản xuất phân bón hữu cơ không chỉ giúp nhiều nông dân Thái Nguyên giảm chi phí mà còn nâng cao chất lượng nông sản, bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng và môi trường sống.
Những năm gần đây, nhiều nông hộ đã chủ động chuyển từ sử dụng phân bón hóa học sang tự sản xuất phân hữu cơ từ các phế phẩm nông nghiệp, điển hình là chị Vi Thị Phương, nông dân xóm La Giang, xã Quang Sơn (Đồng Hỷ). Với diện tích trồng hơn 4.000m2 chè, chị đã ngừng mua phân bón hóa học và thay vào đó tự sản xuất phân bón hữu cơ từ cám gạo, mật mía, men vi sinh và sữa chua.
Chị Phương chia sẻ: Qua các lớp tập huấn về sản xuất nông nghiệp hữu cơ, chúng tôi đã học được cách chế biến phân bón hữu cơ từ nguyên liệu đơn giản nhưng rất hiệu quả.
Theo tính toán, mỗi năm, việc tự sản xuất phân bón hữu cơ đã giúp gia đình chị tiết kiệm gần 35 triệu đồng tiền mua phân bón và thuốc trừ sâu. Chất lượng chè cũng được cải thiện rõ rệt. Lá chè trở nên dày hơn, vị chè thơm, đậm đà và năng suất tăng từ 2-5kg/sào tùy từng vụ.
Không chỉ các nông hộ, nhiều hợp tác xã (HTX) cũng đang phát triển mô hình sản xuất phân bón hữu cơ quy mô lớn. Anh Tống Văn Viện, Chủ tịch HĐQT, Giám đốc HTX nông sản an toàn Ôn Lương (Phú Lương), cho biết: HTX hiện có 7 thành viên và hơn 50 lao động tham gia sản xuất chế biến chè trên diện tích 60ha chè và 50ha lúa. Xác định bón phân hữu cơ là “chìa khoá vàng” phát triển nông nghiệp bền vững, chúng tôi đã xây dựng xưởng sản xuất phân bón từ các phụ phẩm nông nghiệp như phân gà, rơm rạ, tạo ra phân bón vi sinh chất lượng.
Mỗi năm, HTX sản xuất khoảng 100 tấn phân hữu cơ vi sinh, không chỉ sử dụng cho chính các vườn chè của mình mà còn cung cấp cho các hộ liên kết. Theo anh Viện, việc sử dụng phân bón hữu cơ không chỉ giúp cây trồng sinh trưởng tốt, mà còn giúp cải thiện chất lượng đất, làm đất tơi xốp và tăng khả năng giữ ẩm, từ đó giảm thiểu việc tưới nước và tiết kiệm chi phí chăm sóc cây trồng.
Ngoài trồng trọt, các mô hình chăn nuôi theo quy trình tuần hoàn, khép kín cũng đang được áp dụng để sản xuất phân bón hữu cơ. HTX chăn nuôi bò và dịch vụ sản xuất nông nghiệp Nga My (Phú Bình) là điển hình. Sau khi được Trung tâm Khuyến nông tỉnh hỗ trợ áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thông qua mô hình chăn nuôi vỗ béo bò thịt, trồng ngô sinh khối và xử lý môi trường bằng chế phẩm sinh học, đơn vị này đã áp dụng triệt để.
Trong đó, thức ăn cho bò chủ yếu là ngô, cỏ và phụ phẩm nông nghiệp, phân bò được sử dụng để nuôi trùn quế. Phân trùn quế sau đó được dùng để bón cho cây trồng như ngô, cỏ và các loại cây khác.
Anh Dương Văn Hồng, Giám đốc HTX, cho biết: Ngoài việc sử dụng phân hữu cơ cho để bón cho cây trồng của mình, đơn vị còn bán hơn 100 tấn phân trùn quế cho các hợp tác xã, tổ hợp tác sản xuất rau an toàn, chè, cây ăn quả. Mô hình không chỉ giúp tiết kiệm chi phí thức ăn gia súc mà còn tạo ra nguồn thu nhập từ việc bán phân bón hữu cơ. Riêng tiền bán phân bón, mỗi năm anh Hồng thu gần 200 triệu đồng.
Để nâng cao nhận thức của nông dân về sản xuất phân bón hữu cơ vi sinh phục vụ sản xuất nông nghiệp, thời gian qua, Hội Nông dân tỉnh triển khai nhiều giải pháp như: Tuyên truyền để người dân từng bước hình thành lối sản xuất an toàn gắn với bảo vệ môi trường; hướng dẫn kỹ thuật sử dụng chế phẩm, quy trình sản xuất phân hữu cơ vi sinh từ phế phẩm, phụ phẩm nông nghiệp; cung ứng phân bón hữu cơ cho nông dân theo hình thức trả chậm cũng như tư vấn giúp bà con tiếp cận nguồn phân bón hữu cơ chất lượng.
Trên thực tế, việc chuyển từ phân bón hóa học sang hữu cơ mang lại nhiều lợi ích nhưng vẫn gặp không ít khó khăn. Nhiều nông dân cho biết, phân bón hóa học có tác dụng nhanh và dễ sử dụng, trong khi phân hữu cơ cần thời gian dài hơn để phát huy hiệu quả. Điều này khiến họ e ngại thay đổi, nhất là khi họ quá coi trọng năng suất và yêu cầu sản xuất liên tục.
Bên cạnh đó, số lượng hội viên nông dân được tham gia các lớp tập huấn kỹ thuật tạo phân hữu cơ theo phương pháp cầm tay chỉ việc còn ít; những người đã được hướng dẫn cũng chưa kiên trì, áp dụng rộng rãi, khiến số hội viên tiếp cận với mô hình còn hạn chế.
Để thúc đẩy việc sử dụng phân bón hữu cơ, các đơn vị chuyên môn cần đẩy mạnh tuyên truyền sâu rộng hơn về tác hại lâu dài của việc lạm dụng phân bón hóa học; tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật tạo phân bón hữu cơ tại chỗ; vận động nông dân tận dụng phế phẩm nông nghiệp để tự sản xuất phân hữu cơ… Việc chuyển đổi sang canh tác hữu cơ là xu hướng tất yếu, góp phần xây dựng một nền nông nghiệp xanh, sạch và an toàn.
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin