Biến đổi khí hậu đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng, làm thay đổi chế độ thủy văn dẫn đến các hiện tượng thời tiết cực đoan như lũ lụt, hạn hán, xâm nhập mặn diễn ra thường xuyên và khó dự đoán, nhất là đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn tài nguyên nước mặt và nước ngầm ở nước ta hiện nay.
Do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, hạn hán, xâm nhập mặn đến sớm và nghiêm trọng hơn tại các địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long. |
Nước ta có 3.450 sông, suối với chiều dài từ 10km trở lên, trong đó có 405 sông, suối liên tỉnh; 3.045 sông, suối nội tỉnh. Tổng lượng dòng chảy hằng năm khoảng 844 tỷ mét khối, chủ yếu tập trung vào mùa mưa (từ 3 đến 5 tháng), mùa khô (từ 7-9 tháng) chỉ chiếm từ 20% đến 30% lượng dòng chảy năm. Trong khi đó, dòng chảy hằng năm phân bố không đều chủ yếu trên lưu vực sông Cửu Long (chiếm khoảng 56%), lưu vực sông Hồng-Thái Bình (chiếm khoảng 18%), còn lại ở các lưu vực sông khác.
Trong khi đó, nguồn nước của Việt Nam chủ yếu phụ thuộc vào nước ngoài, tổng lượng nước từ nước ngoài chảy vào Việt Nam khoảng 504 tỷ mét khối, chiếm 60% tổng lượng dòng chảy của các sông của nước ta, cụ thể: Đồng bằng sông Cửu Long có tới 95% tổng lượng nước là từ nước ngoài (Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia) chảy vào; lưu vực sông Hồng-Thái Bình có gần 40% tổng lượng nước là từ Trung Quốc.
Đáng lo ngại, những năm gần đây các quốc gia ở thượng nguồn đẩy mạnh việc xây dựng công trình thủy điện trên lưu vực sông Mê Công và sông Hồng, với hơn 20 hồ thủy điện lớn đã và đang là nguy cơ trực tiếp làm suy giảm nguồn nước chảy vào Việt Nam, đe dọa an ninh nguồn nước và tác động đến các hệ sinh thái.
Cùng với sự phát triển kinh tế-xã hội, quá trình đô thị hóa nhanh, các hoạt động sản xuất công nghiệp, nông nghiệp gia tăng kéo theo các hoạt động xả nước thải, nhất là nước thải chưa được xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn xả vào nguồn nước đã và đang tác động đến số lượng và chất lượng nguồn nước các sông, suối.
Mặt khác, biến đổi khí hậu tác động trực tiếp và sâu sắc đến tài nguyên nước Việt Nam, làm thay đổi vòng tuần hoàn nước trong tự nhiên, từ đó gây ra các hiện tượng thời tiết cực đoan, làm giảm chất lượng nước, suy thoái nguồn nước, gia tăng xâm nhập mặn và nước biển dâng.
Theo Kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho Việt Nam năm 2016, mực nước trung bình toàn Biển Đông biến đổi với tốc độ khoảng 4,05mm đến 0,6mm/năm, cao hơn so với tốc độ tăng trung bình toàn cầu trong cùng giai đoạn (3,25mm đến 0,08 mm/năm). Tính trung bình cho toàn dải ven biển Việt Nam, mực nước biển tăng khoảng 3,50 ± 0,7 mm/năm.
Cũng theo kịch bản này, nếu nước biển dâng 1m, khoảng 17,57% diện tích đồng bằng sông Hồng; 1,47% diện tích các tỉnh ven biển miền trung từ Thanh Hóa đến Bình Thuận; 17,84% diện tích TP Hồ Chí Minh và 4,79% diện tích tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu có nguy cơ bị ngập. Riêng đồng bằng sông Cửu Long là khu vực có nguy cơ ngập cao, lên tới 38,90% diện tích.
Ngoài ra, do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, hạn hán, xâm nhập mặn đến sớm và nghiêm trọng hơn tại các địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long. Thí dụ, mùa khô năm 2019-2020, xâm nhập mặn đã ảnh hưởng đến 10 trong số 13 tỉnh, thành phố đồng bằng sông Cửu Long với phạm vi ảnh hưởng của xâm nhập mặn là 1.688.600 ha (chiếm 42,5% diện tích tự nhiên toàn vùng).
Đối với vụ đông xuân 2019-2020, ở đồng bằng sông Cửu Long có sáu tỉnh, gồm: Trà Vinh, Tiền Giang, Sóc Trăng, Kiên Giang, Long An và Cà Mau bị ảnh hưởng của hạn, xâm nhập mặn với tổng diện tích khoảng 41.900 ha, trong đó, có 26 nghìn ha thiệt hại mất trắng... Biến đổi khí hậu không chỉ tác động tiêu cực đến các vùng đất thấp, khu vực cửa sông ven biển mà các địa phương miền núi phía bắc cũng đang phải đối mặt với tình trạng xói lở đất nghiêm trọng, gây ra thiệt hại lớn về người và của.
Thứ trưởng Tài nguyên và Môi trường Lê Công Thành cho biết: Tại Việt Nam, biến đổi khí hậu đang tác động mạnh đến tài nguyên nước, gây ra nhiều hệ lụy như hạn hán, xâm nhập mặn, thiếu nước... các bộ, ngành, địa phương thời gian qua đã đưa ra nhiều giải pháp như tích trữ nước, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi để thích ứng với tình hình thực tế. Tuy nhiên, đây mới chỉ là những giải pháp trước mắt và tạm thời, mà không thể giải quyết lâu dài trước tác động của biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng.
Chính vì vậy, vấn đề đặt ra ở đây là cần có một chiến lược quản lý nguồn nước an toàn và hiệu quả. Chiến lược đó phải hướng tới mục tiêu tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý tài nguyên nước; tiến tới ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tình trạng ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt bảo đảm khai thác, bảo vệ hiệu quả các nguồn nước, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi từ thực tiễn.
Do vậy, để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác quản lý, bảo vệ, khai thác sử dụng tài nguyên nước trong bối cảnh biến đổi khí hậu, bên cạnh việc tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tài nguyên nước. Các cơ quan quản lý nhà nước cần tập trung triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách quản lý đã được thể chế hóa trong Luật Tài nguyên nước 2012 và các văn bản đã được ban hành; xây dựng cơ sở dữ liệu về tài nguyên nước và cơ chế chia sẻ thông tin, dữ liệu về quản lý tài nguyên nước giữa Trung ương và địa phương; bảo đảm sử dụng nước bền vững, đáp ứng các nhu cầu sử dụng nước cho phát triển kinh tế-xã hội, thích ứng với biến đổi khí hậu thiết thực và hiệu quả...
Các chuyên gia, nhà quản lý lĩnh vực tài nguyên nước, biến đổi khí hậu đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường, các bộ, ngành có liên quan, địa phương cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ các chất thải ra môi trường, nhất là nước thải xả vào nguồn nước phải đạt quy chuẩn chất lượng nước phù hợp với chức năng của nguồn nước; nâng cao năng lực ứng phó tác động biến đổi khí hậu và các rủi ro khác liên quan đến tài nguyên nước; xây dựng và duy trì hệ thống cảnh báo, dự báo lũ, lụt, hạn hán, xâm nhập mặn, nước biển dâng và các tác hại khác do nước gây ra trên phạm vi cả nước.
Mặt khác, chủ động xây dựng kế hoạch sử dụng nước trên sông xuyên biên giới trên cơ sở giám sát, hợp tác với các quốc gia có chung nguồn nước trong việc chia sẻ thông tin, số liệu quan trắc, vận hành khai thác nguồn nước; thúc đẩy, tăng cường kết nối Ủy hội sông Mê Công quốc tế với các cơ chế hợp tác tiểu vùng Mê Công (Mê Công-Mỹ, Mê Công-Lan Thương, Mê Công-Nhật Bản…), nhằm thu hút sự ủng hộ từ bên ngoài trong nỗ lực bảo đảm phát triển bền vững; đồng thời tăng cường hơn nữa trách nhiệm trong sử dụng nguồn nước giữa các quốc gia có liên quan.
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin