
"Cuộc đời cô gian truân lắm con ơi!". Cụ bà ở tuổi bát thập vừa mệt nhọc ngồi lên vừa than với tôi như thế. Đưa mắt quan sát phòng khách, tôi thấy bà ăn ở khá đàng hoàng. 2 cây quạt chõ vào chỗ ghế xa lông bà nằm, phòng ăn có bếp ga, tủ lạnh, phòng ngủ có màn khung, đệm mút.
Nhưng khi đã cùng bà đắm vào vùng ký ức xa thẳm mới thấy, trần ai ít người khổ bằng bà thật. Người phụ nữ ấy tên là Nguyễn Thị Man, ở xóm Gò Móc, xã Quyết Thắng (T.P Thái Nguyên).
Bà kể:- Bố cô người Nghệ An, mẹ cô người Quảng Bình, phiêu bạt sang làm ăn ở tỉnh Xavanakhet (Lào) rồi đẻ cô ở đó. Năm 1944, cô 18 tuổi, lấy anh Nguyễn Trọng Quý, là bộ đội chiến đấu ở Lào. Ở với nhau được 2 đêm thì anh đi. Năm sau nhận tin anh hy sinh, cô lấy ngày chia tay làm ngày giỗ. Sinh đứa con trai, cô gửi bà dì ruột nuôi, có chiến tranh, cô và gia đình sơ tán sang Thái Lan, từ đó bặt tin dì và đứa con đầu.
21 tuổi, cô đi bước nữa, lại lấy một anh bộ đội tên là Huỳnh Ngọc Vinh, quê Quảng Trị. Ở với nhau được đúng 1 đêm, anh lên đường và hy sinh. Thời gian gần gũi ngắn ngủi ấy cũng để lại 1 đứa con trai, đặt tên là Huỳnh Ngọc Quang. Năm 23 tuổi, lại một anh bộ đội nữa yêu mến cưới cô làm vợ, tên anh là Dương Văn Thông, người Quảng Nam, ở với nhau được 2 đêm, anh lên đường và cũng hy sinh.
Bà ngừng kể, 2 tay ôm lấy ngực như những cái chết liên tiếp cách đây hơn 60 năm vẫn làm tim bà đau buốt.
- Mỗi lần nghe tin chồng hy sinh, cô chỉ muốn chết đi. Ban ngày có người nọ người kia còn khuây khoả, đêm xuống lại thầm khóc một mình. Có người độc miệng còn bảo cô sát chồng, nghĩ càng tủi thân.
Nhưng cũng không có nhiều thời gian để đau đớn vì bà còn phải gồng gánh nuôi 2 con nhỏ. Người chồng thứ 3 đã để lại cho bà một người con gái là Dương Thị Thái.
Tôi theo chân bà vào phòng thờ. Một bên là bàn thờ phật, một bên thờ bố mẹ và những người chồng.
- Ông thứ nhất không có ảnh, đây là ảnh ông thứ 2 và thứ 3-bà giới thiệu. Cả 2 người đàn ông trong ảnh đều rất đẹp và nhìn chúng tôi thật hiền.
Trở lại phòng khách, câu chuyện được bà nối tiếp bằng người chồng thứ 4:
- 26 tuổi, cô đồng ý lấy làm lẽ ông Dương Văn Thanh đã có vợ và 6 con rồi. 28 tuổi, cô sinh 1 đứa con gái cho ông Thanh đặt tên là Lê Thị Tứ. 29 tuổi lại đẻ thêm 1 con trai nữa.
Tháng 12/1959, cô theo bố mẹ về Việt Nam, lên Thái Nguyên sinh sống. Vợ chồng xa nhau từ đấy. Đến năm 1962 cô nghe tin ông ấy mất. Năm 1963, cô đi bước thứ 5, ông cũng người Nghệ An ra công tác ở Thái Nguyên, đã có vợ và 5 con gái rồi. Lấy nhau không lâu thì ông chuyển về Nghệ An. Thời gian sống với ông, cô sinh thêm 2 con gái, 1 chị chết đuối năm 4 tuổi.
Có một tấm ảnh cỡ lớn treo ở phòng khách chả ăn nhập gì với những đồ đạc xung quanh, bởi trong đó là ngôi nhà xiêu vẹo, nền đất nham nhở, mái lá cọ mòn xơ, trơ cả dui mè, nhưng đó lại là kỷ vật quan trọng của gia đình bà. Ấy là những năm 1965, giặc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc, gia đình bà sơ tán lên xóm Gò Móc:
- Lương của bố, của cô, tiền tử tuất nữa, cộng lại được 158 đồng mà nuôi 11 người. Để không đứt bữa, cô cứ vay chỗ nọ, trả chỗ kia, muối ngọn sắn làm dưa, giã hạt mít giả ruốc, xơ mít dai chua muối ăn dần, xơ mít mật bó chặt như dò, đến bữa thái ra chấm muối đưa cơm.
Giờ cô có 5 người con mang 4 họ. Nhưng chúng nó thương yêu đùm bọc nhau lắm, 2 đứa ở Hà Nội, 3 đứa ở Sài Gòn, 2 cháu nội, 6 cháu ngoại, 2 chắt nội, 3 chắt ngoại, khoẻ mạnh sung sướng cả-bà hạnh phúc khoe.
Nhưng bà lại đang có mối bận tâm khác. Số là trong 3 người chồng bộ đội của bà, giờ mới có một người là ông Dương Văn Thông đủ hồ sơ công nhận liệt sĩ, còn 2 người nữa, bà đang đề nghị được công nhận.
- Loạn lạc, chiến tranh, cô không giữ được giấy tờ gì, nhưng một số người còn sống có thể làm chứng- bà tỏ ra tin tưởng.- Cô muốn chứng minh cô là người phụ nữ chịu đựng, làm việc chính nghĩa chứ không phải vì đồng tiền đâu con ạ.
Người đàn bà ngoài 80 này còn có ý định nữa, đó là xây cho các cháu mẫu giáo của xã một ngôi trường.
- Chà, ý định của cô quá tuyệt vời, cô lấy tiền ở đâu? -Tôi hỏi.
- Cô còn 2 mảnh đất ở thành phố được nhà nước đền bù, cô định bán đi một mảnh để thực hiện mong muốn này.
Tại UBND xã Quyết Thắng, nghe tôi nhắc đến tên bà Man, anh Phạm Minh Đức, Phó Chủ tịch UBND xã, phụ trách mảng văn hoá-xã hội nhận xét: Bà là vợ liệt sĩ Dương Văn Thông, chúng tôi thực hiện đầy đủ trách nhiệm với bà như những gia đình chính sách khác. Bà sống rộng rãi, thẳng thắn, sẵn sàng đóng góp làm việc thiện. Đợt xã xây nghĩa trang liệt sĩ, bà cũng góp 500 nghìn đồng.
Khép lại sau lưng cánh cổng sắt màu xanh, tôi ra về trong nỗi ám ảnh về cuộc đời có phần kỳ lạ của người đàn bà thanh mảnh ấy. Mà cũng có thể, trên đất nước đã chịu biết bao đau thương do chiến tranh gây nên này, còn nhiều cuộc đời ngang trái hơn thế nữa, chỉ có điều tôi chưa được biết.



