
Từ thị trấn huyện Đại Từ đã thấy lờ mờ xanh của rừng núi Tam Đảo. Chúng tôi cùng tấp thẳng xe về đó, chọn vùng đất Mỹ Yên, nơi những năm đất nước kháng chiến-An dưỡng đường số 2 dành cho thương binh là những cảm tử quân của thủ đô Hà Nội và các mặt trận khác về dưỡng thương.
82 năm trước, trong một ngôi nhà mái lá xập xệ ẩn dưới chân núi Tam Đảo, cụ Vệ đã cất tiếng khóc chào đời trong cảnh đói rách. Lúc biết cầm sợi dây thừng thì cha mẹ cho đi ở đợ chăn trâu cho nhà địa chủ. Một chữ cắn đôi không biết, nhưng mới hơn 10 tuổi bà đã thạo đồng nào cỏ tốt để thả trâu, khe suối nào có hoẳn xoáy để tránh không lội.
Cũng như bao sơn nữ dưới chân núi Tam Đảo đầy tiếng gió hú, cọp gầm. Năm 16 tuổi, bà xuất giá theo chồng. Nhưng, ngay sau đêm tân hôn, vợ chồng bà lại đôi ngả... đi ở đợ. Vậy mà giọt máu của ngày hợp hôn giữa 2 người dần thành hình hài, vừa đủ 9 tháng mang nặng thì trở dạ-bà sinh được 1 bé gái. 9 ngày sau, chồng bà lên đường nhập ngũ. Đằng đẵng 3 năm sau, bà gặp lại chồng bằng tấm giấy báo tử. Bà đã khóc gục bên bếp lửa, thương con, bà gắng sống để làm tròn bổn phận của người mẹ.
Mới hơn 20 tuổi đời, bà đã trở thành vợ liệt sĩ. Gạt nước mắt, bà chuyên tâm tham gia các phong trào địa phương. Ngày đi làm, tối mang đèn đến lớp bình dân học vụ học chữ. Vì năng động, bà được cán bộ cấp trên giao cho phụ trách phong trào nông hội. Năm 1954, bà được vinh dự đứng trong hàng ngũ của Đảng.
Thương con dâu sớm cảnh mẹ goá con côi, người mẹ chồng của bà đã nhiều lần thủ thỉ, động viên bà đi bước nữa. Những khi ấy, bà Vệ lại ôm con vào lòng, thổn thức dòng nước mắt. Rồi, một ngày vào An dưỡng đường, bà gặp thương binh Trần Văn Thái với đôi chân tập tễnh-vậy mà thành duyên phận. Bà bảo: Chồng mình là liệt sĩ, giờ gặp anh bộ đội thương binh, nên thương lắm!.
Đám cưới của bà Vệ với anh bộ đội thương binh được bà mẹ chồng trước cùng đứng ra tổ chức. Bà kể: Chỉ thuốc lá cuốn, nước chè xanh với văn nghệ thôi. Vậy mà người làng xã, bộ đội bên An dưỡng sang đông lắm-văn nghệ thâu đêm.
Ngày đó, thương binh được gửi vào các hộ dân, tập trung ở các xóm Cao Chùa và Đồng Khâu. Bà Vệ còn nhớ, năm 1947 bà con trong xã cùng nhau ra tận cầu Huy Ngạc, ngoài huyện lỵ để cáng thương binh về nhà chăm sóc, riêng đợt 1 đã có 46 thương binh, sau đó còn có thêm vài đợt thương binh về nữa. Bấy giờ phong trào nuôi dưỡng thương binh mạnh lắm, An dưỡng đường phải xem lý lịch của từng nhà mới giao thương binh. Điển hình ở phong trào là gia đình ông Đặng Văn ẩm, nhận nuôi 13 thương binh, lại cho cán bộ phụ trách An dưỡng đường mượn 5 mẫu ruộng ở cánh đồng Sạo Gỗ, 4 con bò và 8 ngôi nhà.
Cuối năm 1947, tức sau ngày An dưỡng đường về Mỹ Yên đầy 1 tháng (9/1947-10/1947), thực dân Pháp tấn công lên Đại Từ, đánh vào Mỹ Yên, một lần nữa cán bộ nhân dân Mỹ Yên lại cùng nhau cáng thương binh tránh lên núi Tam Đảo. Trận càn vào Mỹ Yên, chúng đã giết chết 2 nông dân vô tội, bắn chết hàng trăm con trâu cày kéo... Song, ngọn lửa thiêu nhà vừa tắt, bà con lại kéo nhau về dựng lại nhà cửa, cáng thương binh về chăm sóc.
...Bà Vệ trở thành người phụ nữ đầu tiên ở vùng đất Đại Từ, nơi có di tích lịch sử 27-7 lấy chồng thương binh. Tiếp đến là bà Đào Thị Đường; Phạm Thị Thanh; Chu Thị Xuyến; Nguyễn Thị Nhượng...
Mỗi người có một cuộc sống riêng. Nhưng những người như bà Vệ có chồng là thương binh, thì đồng nghĩa với việc chấp nhận một cuộc sống gian khó. Sau mỗi phút giây yếu mềm, họ trở nên cứng rắn hơn, vì chỉ có như thế, họ mới sẻ chia được cho người chồng vợi nỗi đau. Qua các cuộc kháng chiến, đất nước đã có bao nhiêu người đàn trở thành vọng phu; đã có bao nhiêu người phụ nữ trở thành vợ thương binh, bệnh binh và phải làm những công việc của người đàn ông trong nhà. Nhưng, hơn rất nhiều nỗi đau khác, bà Vệ bước trước làm vợ liệt sĩ, bước sau làm vợ thương binh.
Gánh nặng cuộc đời đè lên đôi vai mỏng gầy, ngoài việc chăm lo cho con của người chồng liệt sĩ, bà còn phải chăm sóc 5 người con với người chồng thương binh. Việc bà làm suốt cả cuộc đời là vỗ về chồng nguôi nỗi đau thể xác, cư xử bình đẳng với 2 dòng con... Điều khâm phục là khi các con bà trưởng thành, bà đều động viên vào bộ đội để phát huy truyền thống cha ông. Các con bà đều hoàn thành nghĩa vụ trở về, duy nhất-anh Nguyễn Văn Ninh đã trở về với bà không còn một nửa thân thể, anh gửi lại chiến trường cả đôi chân.
Ngày đón con về, bà ra tận đầu làng, giấu đi dòng nước mắt. Bà bảo: Con về với mẹ, mẹ mừng rồi. Các con đã làm gia phả của dòng họ thêm rạng danh. Mẹ chỉ muốn các con làm việc tốt, để các con cháu sau này đi đâu, lúc kê khai dòng lý lịch không phải ngừng bút vì khổ thẹn.


