Ai được tham gia bảo hiểm thất nghiệp?

16:19, 14/02/2008

Dự thảo Nghị định bảo hiểm thất nghiệp có 8 chương, 49 điều. Nghị định đề cập đến các vấn đề như quyền và trách nhiệm của người lao động; sử dụng người lao động của doanh nghiệp; thủ tục thực hiện khiếu nại; các chế độ; cách thức tổ chức quỹ và các điều khoản thi hành...

Theo dự thảo Nghị định, người lao động là công dân Việt Nam làm việc trong cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể; làm việc cho cơ quan, tổ chức, cho cá nhân nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ và sử dụng lao động Việt Nam..., có hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn từ 12-36 tháng, đều thuộc diện tham gia bảo hiểm thất nghiệp.

Theo dự thảo, loại hình bảo hiểm thất nghiệp này có sự tham gia của 3 bên là Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Dự thảo cũng quy định chi tiết, cụ thể trách nhiệm của mỗi bên trong việc giải quyết chế độ, trợ cấp cho người lao động khi bị thất nghiệp.

Để được hưởng bảo hiểm thất nghiệp, người lao động phải đóng bảo hiểm thất nghiệp đủ 12 tháng trở lên trong vòng 24 tháng trước khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật lao động hoặc chấm dứt hợp đồng làm việc theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức; đã đăng ký thất nghiệp với tổ chức thực hiện bảo hiểm thất nghiệp và có đơn đề nghị hưởng bảo hiểm thất nghiệp theo mẫu do tổ chức thực hiện bảo hiểm thất nghiệp quy định; chưa tìm được việc làm sau mười lăm ngày kể từ ngày đăng ký thất nghiệp.

Theo Luật Bảo hiểm xã hội quy định, người lao động đóng bằng 1% tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp. Người sử dụng lao động đóng 1% quỹ tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của những người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp.

Hằng tháng, Nhà nước hỗ trợ từ ngân sách bằng 1% quỹ tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của những người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp và mỗi năm chuyển một lần.

Trợ cấp thất nghiệp là khoản tiền hằng tháng được trả cho người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp khi có đủ điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định. Mức trợ cấp thất nghiệp hàng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 6 tháng liền kề trước khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động.

Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp được quy định như sau: 3 tháng, nếu có đủ 12 tháng đến dưới 36 tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp; 6 tháng nếu có đủ từ 36 tháng đến dưới 72 tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp; 9 tháng nếu có đủ từ 72 tháng đến dưới 144 tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp; 12 tháng nếu có đủ từ 144 tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp trở lên.

Trong thời gian này, người lao động được hỗ trợ học nghề, hỗ trợ tìm việc làm và sau hai lần từ chối nhận việc làm do tổ chức bảo hiểm xã hội giới thiệu mà không có lý do chính đáng thì sẽ bị chấm dứt hưởng trợ cấp.

Hiện, dự thảo Nghị định hướng dẫn một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp đã được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội trình Chính phủ và lấy ý kiến rộng rãi.

Dự kiến, chính sách bảo hiểm thất nghiệp sẽ được thực thi từ ngày 1/1/2009.