
Con số trên được đưa ra tại lễ công bố báo cáo Tình hình trẻ em thế giới năm 2008 của UNICEF. Theo đó, dù đã đạt được những kết quả đáng mừng trong việc giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi song trung bình mỗi giờ trôi qua lại có ba trẻ em Việt Nam bị tử vong.
Ðiều đáng nói là hầu hết các em tử vong do những nguyên nhân có thể phòng ngừa được. Cụ thể là trẻ tử vong do nguyên nhân sơ sinh chiếm 36%, 19% do viêm phổi, tiêu chảy (15%), sốt rét (8%), sởi (4%)...
Cũng theo báo cáo trên, tỷ lệ tử vong của trẻ dưới 5 tuổi đã giảm từ 53 xuống còn 17 hơn 1.000 trẻ đẻ sống trong khoảng thời gian từ năm 1999 đến 2006.
Trong cùng thời kỳ, tỷ lệ tử vong sơ sinh cũng giảm từ 38 xuống 15/1.000 trẻ.
Có được thành quả trên, theo bà Ðinh Thị Phương Hòa, Phó Vụ trưởng Chăm sóc trẻ em (Bộ Y tế) do chúng ta duy trì được tỷ lệ tiêm chủng cao (hơn 95%). Việt Nam đã thanh toán được bệnh bại liệt vào năm 2002 và loại trừ bệnh uốn ván ở bà mẹ và trẻ sơ sinh năm 2005.
-Các chiến lược trong việc giảm tỷ lệ trẻ bị quáng gà, chậm phát triển trí tuệ do thiếu vi chất đã được thực hiện trên toàn quốc.
Với các bà mẹ, tỷ lệ chết cũng giảm và hiện 88% số phụ nữ có thai được cán bộ y tế có chuyên môn đỡ đẻ.
Phần lớn trẻ có triệu chứng viêm phổi đã được chữa trị (83%) và liệu pháp bù nước được sử dụng rộng rãi trong việc chữa trị tiêu chảy cho trẻ...
Tuy nhiên, một thực tế không thể phủ nhận là tiến độ giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh (trẻ 1 - 30 ngày tuổi) hiện có xu hướng chậm lại.
Trẻ sơ sinh tử vong đang chiếm một nửa trong tổng số trẻ tử vong ở Việt Nam. Nguyên nhân được xác định có liên quan đến việc chăm sóc trẻ cũng như nuôi con bằng sữa mẹ.
Tỷ lệ trẻ em được bú sữa mẹ còn thấp, chỉ có khoảng 58% số trẻ được bú mẹ trong giờ đầu sau sinh và 17% số trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong sáu tháng đầu.
Bên cạnh đó là tỷ lệ thiếu dinh dưỡng ở bà mẹ và trẻ em vẫn còn cao. Dù 88% số phụ nữ mang thai được cán bộ y tế chuyên trách đỡ đẻ nhưng số người được tư vấn về dinh dưỡng lại rất thấp khiến cho 38% số phụ nữ có thai bị thiếu máu, hơn 30% số trẻ dưới 5 tuổi bị còi cọc...
Sở dĩ có tình trạng nêu trên, theo bà Hòa, do dịch vụ y tế chưa tới được những đối tượng cần nhất. Dịch vụ trước và sau sinh cho các bà mẹ còn hạn chế. Hiện chỉ ở những thành phố lớn, thai phụ mới được theo dõi thai sản cũng như tư vấn về chế độ dinh dưỡng thường xuyên.
Ðã vậy, khoảng trống giữa sản và nhi khoa khiến việc phát hiện bệnh cho trẻ sơ sinh gặp quá nhiều khó khăn, đặc biệt là ở vùng khó khăn.
Hiện tỷ lệ tử vong ở vùng nông thôn, miền núi và trong các gia đình nghèo cao gấp từ ba đến bốn lần ở vùng đồng bằng và trẻ sống trong gia đình khá giả.
Sự chênh lệch về mức sống giữa các vùng miền đang cản trở bước tiến của Việt Nam trên con đường bảo vệ sự sống còn của trẻ em, ông J.Hendra, điều phối viên thường trú LHQ tại Việt Nam nhận xét.
Theo ông J.Hendra, tiếp cận các dịch vụ y tế còn hạn chế đối với đồng bào. Ðây chính là trở ngại lớn nhất trong việc bảo đảm trẻ sơ sinh có thể sống được trong những ngày đầu tiên của cuộc đời. Trong khi phần lớn phụ nữ được cán bộ y tế chăm sóc (88%) thì chỉ có 44% số phụ nữ ở miền núi phía bắc nhận được sự chăm sóc này. Ước tính có khoảng 27% số phụ nữ Tây Nguyên không được nhận các dịch vụ chăm sóc thai sản. Ít phụ nữ được tiếp cận với các dịch vụ y tế trong khi chất lượng các dịch vụ chăm sóc cơ bản, cấp cứu và chuyển tuyến cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ ở những vùng này không bảo đảm.
Trong khi một số ngành chuyên môn, kỹ thuật ở các bệnh viện T.Ư phát triển ngang tầm quốc tế thì quy mô cũng như chất lượng chăm sóc nhi khoa ở các bệnh viện tuyến tỉnh và huyện ngày càng thu hẹp.
Do vậy, người dân thường vượt tuyến khiến bệnh viện tuyến trên quá tải còn bệnh viện tuyến dưới... vắng bóng người bệnh.
Nước và vệ sinh môi trường, nhiễm HIV/AIDS cũng đang là gánh nặng trong việc nâng cao sự sống còn cho trẻ em.
Nghiên cứu cho thấy tại nông thôn chỉ có 18% số nhà vệ sinh gia đình đạt tiêu chuẩn. Tình trạng trẻ đi vệ sinh bừa bãi còn phổ biến và đây là nguyên nhân làm cho tỷ lệ nhiễm giun sán ở trẻ cao.
HIV/AIDS xâm nhập vào cộng đồng dân cư và ảnh hưởng ngày càng nhiều đến tầng lớp thanh niên, thiếu niên, phụ nữ có thai, thậm chí là cả trẻ sơ sinh.Ước tính hằng năm có tới 6.000 phụ nữ có thai nhiễm HIV và 2.000 trẻ sơ sinh có nguy cơ nhiễm HIV.
Trước thực trạng nêu trên, Thứ trưởng Y tế Trần Chí Liêm khẳng định: Ðể hoàn thành mục tiêu phát triển thiên niên kỷ số 4 là giảm hai phần ba tỷ lệ chết ở trẻ em dưới 5 tuổi vào năm 2015, trong thời gian tới, Việt Nam sẽ mở rộng các biện pháp can thiệp đã thực hiện trong những năm qua, trong đó đặc biệt chú trọng đến dịch vụ y tế thôn, bản, mở rộng đối tượng được uống vitamin A, bổ sung kẽm cho bà mẹ và trẻ em trong cộng đồng.

