
Chúng tôi đã tìm gặp và được trò chuyện cùng các cựu chiến binh trước đây đã từng tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, trực tiếp đánh vào Dinh Độc Lập. Đó là cựu chiến binh Nguyễn Thế Đỉnh, Vũ Ngọc Đông (phường Thắng Lợi, T.X Sông Công) và Nguyễn Công La, phường Thịnh Đán (T.P Thái Nguyên). Ký ức của một thời oanh liệt hiển hiện về qua từng câu chuyện.
Theo lệnh Tổng động viên của Chủ tịch Tôn Đức Thắng "cả nước lên đường", năm 1971, 3 chành trai Đỉnh, Đông, La lên đường nhập ngũ. Tuy được biên chế ở các tiểu đoàn khác nhau nhưng đều thuộc Sư đoàn F304. Sau 6 tháng huấn luyện ở Phú Bình, Đỉnh và La được biên chế về Tiểu đoàn 9, E66, F304 thuộc Quân đoàn 2; Đông được đưa về Tiểu đoàn 50, C1, F304. Trong nhiều trận mà các anh tham gia, chúng tôi nhận thấy khi nhắc đến trận đánh Chi khu Quân sự Thượng Đức (Quảng Nam) mà Nguỵ quyền còn đặt cho một cái tên rất kêu "cánh cửa thép" bảo vệ Đà Nẵng thì cả 3 anh Đỉnh, Đông, La đều sôi nổi lên hẳn, bởi trận này đã in sâu trong tâm khảm mỗi người vì nó quá ác liệt. Đã rất nhiều đơn vị của ta tổ chức đánh Chi khu này nhưng đều không thành, bởi chúng xây dựng rất kiên cố. Trận này, giữa ta và địch giằng co nhau đúng 3 ngày, quân ta bật đi, bật lại nhưng vẫn không chiếm được. Trong 3 ngày chiến đấu ngoan cường đó, hơn 400 đồng đội của các anh đã anh dũng hy sinh.
Nhận thấy địch xây dựng lô cốt quá kiên cố, nếu chỉ dùng bộ binh khó mà thắng được, nhận lệnh của trên, Tiểu đoàn 9 rút quân ra ngoài thực hiện phương án 2, kéo pháo lên điểm cao 296 để đánh huỷ diệt. Pháo được kéo lên đồi cao cách nơi địch đóng quân gần 1km và bắn thẳng vào đồn địch. Chỉ sau 1 ngày chúng ta đã tiêu diệt được 150 lô cốt, hàng rào và các ụ súng. Sau đó, lực lượng bộ binh của ta tiếp tục chia cắt địch thành từng mảnh rồi tiêu diệt. Trận này đã tiêu diệt trên 1 nghìn tên địch. Thiếu tá ngụy Phi Hùng, Chỉ huy trưởng Chi khu Quân sự Thượng Đức đã chết ngay tại trận. Cái được gọi là "cánh cửa thép" đã được chọc thủng, từ đó giúp quân ta tiến vào Đà Nẵng thuận tiện hơn. Tuy nhiên, địch đã phát hiện ra F304 đã chiếm được Chi khu Quân sự Thượng Đức, chọc xuống Đà Nẵng, chúng cẩu pháo từ Quảng Trị vào và đưa lính dù mà chúng vẫn mệnh danh là "quả đấm thép" vào ứng cứu. Nhớ lại trận chiến này, anh Vũ Ngọc Đông kể: Tôi còn nhớ rất rõ Tư lệnh Phó Quân đoàn 2 Hoàng Đan chỉ huy nói với anh em chúng tôi: Các anh chỉ cần giữ chân quân dù ở đây, thắng được càng tốt, không thắng được cũng phải giữ chân chúng để cho các chiến trường khác thực hiện chiến lược của Bộ Quốc phòng. Quả thực trận đánh giữa ta và lính dù tại điểm cao 1062 Chi khu Quân sự Thượng Đức là vô cùng ác liệt, quân ta hy sinh quá nhiều. Song anh em vẫn bảo nhau, nó chỉ có súng đạn còn mình có súng, đạn và cả lý trí con người.
Trận chiến này, dù quân đội ta hy sinh khá nhiều, nhưng cũng tiêu diệt được 500 lính dù, song quan trọng hơn là đã giữ chân được lính dù để các đơn vị khác giải phóng Buôn Ma Thuột. Khi mất Buôn Ma Thuột, Tổng thống Thiệu mới tuyên bố: "Ta mắc mưu Cộng sản. Thượng Đức không phải chiến trường chính mà là Buôn Ma Thuột". Trong khi, trước đó chúng tôi nghe đài, Tổng thống Thiệu cũng từng tuyên bố "Nếu Cộng sản lấy được Quận lỵ Thượng Đức thì sông Thu Bồn chảy ngược". Thiệu đã không ngờ được chiến lược của ta và chỉ đến khi mất Buôn Ma Thuột hắn mới mới sực tỉnh.
Ăn Tết xong, đầu năm 1975, Sư đoàn được lệnh hành quân vào chiến dịch Hồ Chí Minh. Mệnh lệnh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh giờ vẫn vang lên trong tâm khảm các anh "Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, xốc tới, quyết chiến, quyết thắng, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước". Lần đầu tiên các anh được hành quân bằng xe cơ giới từ Đà Nẵng vào Đồng Nai. Đến đây, đơn vị được lệnh đánh Trường sỹ quan thiết giáp của địch tại căn cứ Nước Trong, huyện Long Khánh. Đây là thủ phủ cuối cùng của chúng trước khi tiến vào Sài Gòn. Đúng 2 ngày, đơn vị đã giải phóng xong căn cứ Nước Trong. Sau trận đánh này, đơn vị các anh nhận nhiệm vụ mới phối hợp với Lữ đoàn 203 Tăng Thiết Giáp đánh chiếm Dinh Độc lập. Trước khi bước vào trận đánh sào huyệt cuối cùng của Ngụy quyền tại Sài Gòn, Chính uỷ của Trung đoàn nói với chúng tôi: "Ngày 30, Trung đoàn 66, F304, Quân đoàn 2 có nhiệm vụ gõ cửa Dinh Độc Lập. Nếu cầu Sài Gòn bị đánh sập, còn một người cũng phải bơi qua sông để cắm cờ trên Dinh Độc lập. Đây là phút cuối cùng ở hang ổ cuối cùng của Ngụy quân, ngụy quyền, 1 phút hy sinh phải hy sinh. Chúng ta không được do dự lúc này, do dự địch lợi dụng cơ hội phản công lại ta. Hơn 30 năm nay ta đã đổ bao xương máu, ngã trước bình minh cũng phải hy sinh".
Đúng 4h sáng ngày 30/4, Sư đoàn phối hợp cùng Lữ đoàn 203 tiến vào Sài Gòn. 7 giờ sáng, đặc công của ta đã giữ được cầu Sài Gòn. Khi đơn vị vừa đánh vào đến Dinh Độc lập đã nghe thấy Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện trên đài phát thanh. Chúng tôi vào sâu trong Dinh, áp tải từng đoàn tướng lĩnh của ngụy đầu hàng. Giờ phút nhìn thấy lá cờ Tổ quốc thiêng liêng tung bay trên nóc Dinh Độc lập vẫn còn in sâu trong tâm trí các anh. Chẳng ai bảo ai cùng hô vang chiến thắng, chiến thắng rồi nhảy lên ôm lấy nhau, công kênh nhau lên, tiếng cười rộn vang. Ngay sau khi chiếm được Dinh Độc Lập, đơn vị các anh lại được cử đến Bến cảng Nhà Rồng để kêu gọi đám ngụy quân dùng tàu chạy trốn quay lại đầu hàng. Sau đó, nhận lệnh rút ta bảo vệ Tổng kho Long Bình ở Biên Hoà và chuẩn bị cho mít tinh chào mừng chiến thắng 30/4, Quốc tế Lao động 1/5 (vì trận chiến nên ngày mít tinh phải lùi lại mấy ngày).
Sau chiến dịch Hồ Chí Minh, Bắc - Nam xum họp một nhà, cả 3 anh lại tiếp tục tham gia các trận đánh truy quét tàn binh phunrô ở Bảo Lộc (Lâm Đồng). Đến năm 1976, anh Đông và anh Đỉnh xuất ngũ về địa phương công tác. Anh Đông được phân về làm công nhân ở Nhà máy Y cụ II; anh Đỉnh làm ở Nhà máy Phụ tùng máy số 1 (Khu Công nghiệp Sông Công). Còn anh La tiếp tục tham gia bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979, sau đó về Quân khu I, đến năm 1981 thì nghỉ chế độ.
Trở lại lịch sử, Sư đoàn 304 cũng như các sư đoàn 312, 316, 320 là các sư đoàn đầu tiên của Việt Minh. Sư đoàn 304 được thành lập cách đây 60 năm (10/3/1950 – 10/3/2010). Ra đời và trưởng thành trong khói lửa của cuộc chiến tranh giải phóng, Sư đoàn đã tham gia hầu hết các chiến dịch lớn như Điện Biên Phủ (1954); chiến dịch Mậu Thân (1968); đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, cùng Lữ đoàn 203 xe tăng đánh chiếm và cắm cờ giải phóng trên nóc Dinh Độc lập. Có mặt ở hầu hết các chiến trường từ Bắc vào


