
Quyết định 64/2003/QĐ-TTg ngày 22-4-2003 của Thủ tướng Chính phủ ghi rõ những đơn vị, cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường đặc biệt nghiêm trọng trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên gồm 8 đơn vị, trong đó có Công ty CP Giấy Hoàng Văn Thụ. Sau hơn 6 năm triển khai các biện pháp nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường cùng với đầu tư vốn để mua sắm trang thiết bị sản xuất thay thế thiết bị lạc hậu, đầu tháng 3-2010, UBND tỉnh và Sở Tài Nguyên và Môi trường đã chính thức ra quyết định công nhận Công ty CP Giấy Hoàng Văn Thụ hoàn thành việc thực hiện các biện pháp xử lý triệt để ô nhiễm môi trường và có văn bản đề nghị ra khỏi danh sách những đơn vị gây ô nhiễm môi trường đặc biệt nghiêm trọng theo quyết định của Chính phủ.
Công ty CP Giấy Hoàng Văn Thụ tiền thân là Nhà máy Giấy Đáp Cầu do Pháp xây dựng từ năm 1913 tại Bắc Ninh. Sau khởi nghĩa cách mạng Tháng Tám thành công (tháng 8-1945), Nhà máy đã thuộc về giai cấp công nhân. Đến năm 1947, được lệnh của Chính phủ, Nhà máy chuyển lên xã Phượng Tiến (Định Hóa). Năm 1955, Nhà máy di rời từ Định Hóa về phường Quan Triều (T.P Thái Nguyên). Từ khi thành lập đến năm 2003, Nhà máy sử dụng dây chuyền sản xuất bột giấy của Trung quốc và một số nước khác nhưng do công nghệ lạc hậu, lại sử dụng lâu năm nên năng suất thấp, gây ô nhiễm môi trường. Thời điểm này, bộ phận sản xuất của Nhà máy gồm phân xưởng nấu bột (5 nồi nấu), phân xưởng giấy gồm 3 máy xeo công suất 4.000 tấn/năm trong khi lại chưa có hệ thống xử lý nước thải nên toàn bộ nước thải của các khâu đoạn sản xuất giấy đều được thải trực tiếp ra môi trường gây ô nhiễm nghiêm trọng, đặc biệt là nước dịch đen của bộ phận nấu bột có mùi rất khó chịu. Chính vì thế, đơn vị đã bị liệt vào danh những cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng cần phải xử lý triệt để theo Quyết định 64 của Thủ tướng Chính phủ. Từ thực trạng đó, Nhà máy đã quyết định xử lý triệt để ô nhiễm môi trường bằng cách đổi mới công nghệ và xây dựng hệ thống xử lý nước thải.
Trao đổi với chúng tôi, ông Vũ Thái Sơn, Phó Tổng Giám đốc phụ trách kỹ thuật sản xuất của Công ty cho biết: Trong thời gian từ năm 2003 đến năm 2006, Nhà máy sản xuất kinh doanh không mấy hiệu quả và tiến hành cổ phần hóa nên việc đầu tư thiết bị xử lý ô nhiễm môi trường không được quan tâm. Cuối năm 2003, Công ty đã đầu tư máy xeo công suất 15.000 tấn/năm của Cộng hòa Liên bang Đức sản xuất giấy bao gói xi măng với công nghệ tái chế giấy hòm hộp (không sử dụng hệ thống nấu bột), sau đó Công ty cũng dỡ bỏ 5 nồi nấu bột giấy (nguồn gây ô nhiễm chính) và 3 máy xeo cũ. Cũng thời điểm này, Công ty đã đầu tư hệ thống xử lý nước thải trị giá trên 3,1 tỷ đồng nhưng khi đưa vào vận hành thì không đạt hiệu quả do thiết bị công nghệ không phù hợp, chi phí vận hành lớn nên dừng hoạt động. Đến năm 2007, khi hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty dân ổn định, Công ty đã đầu tư hệ thống thu hồi tuyển nổi ngang với kinh phí trên 500 triệu đồng, hệ thống thu hồi bột thải với 2 máy xeo cattong lạnh, bể chứa, sàn, nhà xưởng kinh phí trên 400 triệu đồng. Song song với đổi mới công nghệ, Công ty còn triển khai hàng loạt các biện pháp góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường, như: Xây dựng hệ thống bể chứa nước trắng tổng sức chứa 300m3 để tái sử dụng, giảm thiểu lượng nước thải ra môi trường. Cải tạo mương dẫn nước thải, lắng sạn cát, tách lọc tạp chất nhẹ. Cải tạo, làm mới trên 1.200m2 kho nguyên liệu có mái che. Lựa chọn nguyên liệu sạch để hạn chế tạp chất. Biên chế tổ vệ sinh môi trường và xeo cattong lên 12 người (trước đây chỉ có 4 người) thường xuyên làm nhiệm vụ thu gom và vệ sinh môi trường… Ngoài ra, Công ty còn thường xuyên tuyên truyền ý thức trách nhiệm trong công tác bảo vệ môi trường tới toàn thể cổ đông; phát động cổ đông, các tổ chức đoàn thể tích cực lao động sản xuất cải tạo ao bột sình lầy thành hồ sinh thái với diện tích trên 1.000m2… Với các giải pháp nêu trên, Công ty đã giảm thiểu ô nhiễm môi trường hàng trăm lần so với thời điểm năm 2003 và chỉ còn 2 trong 5 chỉ tiêu vượt tiêu chuẩn Việt Nam khoảng 2 lần.
Xác định được trách nhiệm của đơn vị và tính cấp bách trong xử lý ô nhiễm môi trường, cuối năm 2008, Công ty tiếp tục mời Viện Khoa học và Công nghệ môi trường (INEST) Đại học Bách khoa Hà Nội khảo sát, lập phương án xử lý triệt để nước thải gây ô nhiễm và đến tháng 7-2009, Công ty đã ký hợp đồng tư vấn, thiết kế Dự án cải tạo hệ thống xử lý nước thải với Viện Khoa học và Công nghệ môi trường với tổng vốn đầu tư trên 4 tỷ đồng. Thông qua Sở Tài nguyên và Môi trường, Công ty đã lập dự án và được vay 70% vốn từ Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam với lãi suất ưu đãi, số còn lại do Công ty đối ứng. Tháng 12-2009, hệ thống xử lý nước thải đã hoàn thành, đưa vào vận hành sử dụng và tiến hành nuôi cấy vi sinh. Sau 2 tháng vận hành, Trung tâm Quan trắc và Bảo vệ môi trường (Sở Tài nguyên và Môi trường) đã tiến hành lấy mẫu nước thải để kiểm tra thì các chỉ số đều nằm trong tiêu chuẩn cho phép. Tại các cửa xả nước thải của Công ty ra Sông Cầu các mẫu nước đều đạt tiêu chuẩn Việt
.jpg?width=300&height=-&type=resize)




.jpg?width=300&height=-&type=resize)
