.jpg)
Hiện nay, diện tích rừng tự nhiên của Thái Nguyên là 352.621 ha, trong đó diện tích rừng trồng chiếm khoảng gần 172 nghìn ha. Đặc biệt ở huyện Võ Nhai có hệ thống rừng núi đá nhiều loại gỗ quý hiếm có những cây cổ thụ đường kính thân1,5 – 2m mà ít tỉnh ở khu vực miền núi phía Bắc có được, vì thế, công tác quản lý, bảo vệ rừng của Thái Nguyên gặp khó khăn…
Vì những món lợi trước mắt mà cách đây 3 năm, “lâm tặc” đã chặt phá không tiếc tay hằng trăm héc - ta rừng phòng hộ đầu nguồn Ngàn Me, xã
Trước thực trạng đó, nhằm bảo tồn và phát huy vốn rừng, 3 năm trước, Thái Nguyên đã xây dựng Đề án Quản lý, bảo vệ rừng giai đoạn 2007-2010. Theo đó, để thực hiện tốt các mục tiêu về bảo vệ rừng mà Đề án đã đề ra, ngành Lâm nghiệp đã phối hợp với các địa phương có rừng tích cực làm tốt công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức người dân; xác lập 3 khu rừng theo đúng quy định là Khu rừng cảnh quan ATK Định Hóa, Khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng, Khu rừng phòng hộ hồ Núi Cốc. Ngoài ra, hằng năm, lực lượng kiểm lâm còn tích cực phối hợp với chính quyền địa phương các cấp tăng cường truy quét các đối tượng buôn bán, vận chuyển lâm sản trái phép.
Thêm vào đó, tỉnh ta đã xây dựng Dự án “Hỗ trợ người dân vùng cao canh tác nông, lâm nghiệp bền vững trên nương rẫy giai đoạn 2009-2015” (hiện đang tổ chức thực hiện tại Võ Nhai, Đồng Hỷ, Phú Lương)... nên đến nay, trật tự trong quản lý rừng đã ổn định, việc quản lý, bảo vệ 3 loại rừng đảm bảo các quy định của Nhà nước. Lâm nghiệp xã hội tiếp tục được nâng cao, người dân sống gần rừng đã tự giác thực hiện việc quản lý, bảo vệ rừng và phát triển rừng. Năng lực quản lý Nhà nước về lâm nghiệp nói chung, bảo vệ rừng nói riêng của các chủ thể được nâng lên, đặc biệt là cấp xã... Đến thời điểm này, 909/1.232 xóm, bản có rừng đã xây dựng được quy ước bảo vệ rừng theo Thông tư 70 ngày 1-8-2007 của Bộ Nông nghiệp và PTNT.
Các khu rừng tự nhiên hiện có đã giao đến các hộ dân nên quản lý và bảo vệ tốt được hệ sinh thái rừng; việc sử dụng rừng trong khai thác đảm bảo quy chế, quy trình, quy phạm. Người dân đã biết sử dụng rừng hợp lý, tích cực phát triển rừng, đời sống ngày càng được cải thiện nhờ nguồn lợi thu được từ rừng và làm nghề rừng; ý thức bảo vệ phòng cháy, chữa cháy rừng ngày một nâng cao. Cùng với những biến chuyển tích cực trên, từ khi thực hiện Đề án này, việc trồng mới rừng cũng được chỉ đạo ngày càng sát sao hơn. Năm 2007, diện tích có rừng toàn tỉnh là trên 164 nghìn ha, độ che phủ 46,4% thì đến năm 2009 là gần 172 nghìn ha, độ che phủ gần 48,7%....
Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định nhưng theo ông Nguyễn Quốc Minh, Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT - đơn vị thực hiện Đề án Quản lý bảo vệ rừng: Trong quá trình triển khai Đề án vẫn còn những hạn chế như: việc xác định mốc ranh giới, bảng chỉ dẫn thực hiện theo quy chế xác định ranh giới và cắm mốc các loại rừng sau điều chỉnh 3 loại rừng chưa được thực hiện; tại các khu rừng có gỗ quý hiếm trên địa bàn tỉnh vẫn còn tình trạng lâm tặc khai thác lén lút; các vụ cháy rừng, vi phạm Lâm luật đã giảm nhưng chưa có biện pháp kiểm soát và ngăn chặn bền vững...
Bên cạnh đó, một số địa phương có rừng, chính quyền chưa vào cuộc quyết liệt để ngăn chặn các vụ vi phạm Lâm luật; lực lượng kiểm lâm mỏng; kinh phí cũng như các điều kiện đảm bảo duy trì cho lực lượng kiểm lâm, nhất là kiểm lâm địa bàn, cán bộ lâm nghiệp và chính quyền cơ sở xã còn hạn hẹp... Do vậy, để thực hiện Đề án hiệu quả, thời gian tới, cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa lực lượng kiểm lâm và quân đội trong bảo vệ rừng; tăng cường trách nhiệm của chính quyền cơ sở trong quản lý Nhà nước về lâm nghiệp; tăng phụ cấp cho cán bộ lâm nghiệp xã; thành lập quỹ bảo vệ rừng trên địa bàn...


.jpg?width=300&height=-&type=resize)
.jpg?width=300&height=-&type=resize)
