Chiều 17-9, Ngân hàng Thế giới nhận định, Việt Nam đã đạt nhiều tiến bộ vượt bậc trong thực hiện bảo hiểm y tế xã hội và bao phủ được hơn nửa dân số, nhưng còn cần nhiều cải cách như cần tăng mức hỗ trợ mua bảo hiểm theo hộ gia đình, và cần có chế tài đối với nhóm tham gia bắt buộc…
Bà Victoria Kwakwa, Giám đốc WB tại Việt Nam cho rằng: “Nghiên cứu chỉ cho chúng ta thấy làm thế nào để Việt Nam có thể đẩy nhanh quá trình này để đảm bảo sức khỏe cho người dân và giúp giảm gánh nặng chi phí y tế cho người nghèo”.
Báo cáo của WB “Hướng tới bảo hiểm y tế xã hội toàn dân tại Việt Nam: Đánh giá và lựa chọn” vừa công bố đưa ra một cái nhìn tổng quát về quá trình thực hiện bảo hiểm y tế và các lựa chọn cải cách quan trọng nhằm thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân. Báo cáo nhận định, nhờ tăng chi mạnh cho chăm sóc y tế, chương trình bảo hiểm y tế được thí điểm năm 1989, đã tăng số người được nhận bảo hiểm. Năm 2010, tỷ lệ này đã tăng lên gần 60%, so với 10% năm 1990.
Đề án thực hiện lộ trình tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân của Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2012 đưa ra những mục tiêu tiếp tục mở rộng diện bao phủ tới 70% năm 2015 và 80% năm 2020. Đề án cũng đặt mục tiêu giảm tỷ lệ chi trả trực tiếp của người dân trong tổng chi y tế xuống dưới 40% cho đến năm 2015.
Nhưng theo WB vẫn còn nhiều thách thức như tỷ lệ tham gia bảo hiểm còn thấp, ngay cả trong nhóm bắt buộc, dù Chính phủ đã tăng đáng kể hỗ trợ phí một phần cho đối tượng cận nghèo. Tại thời điểm năm 2010 tỷ lệ chi trực tiếp vẫn vào khoảng 60%, có thể gây rủi ro tài chính cho các hộ gia đình.
Để đạt được mục tiêu trong Đề án, Báo cáo của WB đề xuất cải cách trong một số lĩnh vực như: Mở rộng bao phủ qua việc trợ giá bảo hiểm, mua bảo hiểm theo hộ gia đình, và có chế tài đối với nhóm tham gia bắt buộc; Nâng cao công bằng và bảo đảm tài chính, giảm chi phí phải trả ngoài đồng chi trả và áp dụng hỗ trợ chi phí lớn; Củng cố cơ chế tài chính y tế, đảm bảo chi tiêu hiệu quả và hợp lý cho mua thuốc và dịch vụ; và Tăng trách nhiệm, cải thiện tổ chức, điều hành, và quản lý nhà nước của bảo hiểm y tế.