Phát triển bền vững trước thách thức về môi trường và biến đổi khí hậu

14:49, 18/06/2015

Là một quốc gia đang phát triển, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế nhưng vẫn chưa thật sự bền vững, chất lượng tăng trưởng còn thấp, tài nguyên thiên nhiên chưa được coi là nguồn lực đặc biệt quan trọng.

Vai trò, giá trị của tài nguyên cũng chưa được nhận thức đầy đủ, đánh giá đúng tầm. Điều đó dẫn đến hiệu quả sử dụng lãng phí, thất thoát. Mặt khác, các vấn nạn ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên bức xúc do biến đổi khí hậu gia tăng, đã và đang tác động tiêu cực đến nền kinh tế, đòi hỏi phải có những giải pháp khả thi, tìm kiếm những công cụ mới, chuyển đổi mô hình tăng trưởng để có thể biến những thách thức thành cơ hội phát triển bền vững.

 

* Những thách thức và cơ hội

 

Đánh giá về những thách thức trong bối cảnh ô nhiễm môi trường gia tăng và tác động tiêu cực ngày càng rõ nét của biến đổi khí hậu, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Thái Lai cho biết, theo kết quả nghiên cứu về tổng thiệt hại của nền kinh tế nước ta trong thời gian qua do ô nhiễm môi trường gây ra, tối thiểu chiếm từ 1,5-3% GDP. Ngoài ra mỗi năm Việt Nam còn phải chịu thiệt hại tới 780 triệu USD trong các lĩnh vực chăm sóc sức khỏe cộng đồng vì ô nhiễm môi trường. Kinh nghiệm từ các nước phát triển đã cho thấy, quá trình phát triển kinh tế mà không quan tâm đến các vấn đề môi trường sẽ đưa ra hiệu quả kinh tế thấp, chi phí cho các hoạt động xử lý ô nhiễm sẽ cao hơn chi phí đầu tư cho các biện pháp kiểm soát ô nhiễm.

 

Chính vì vậy, để bảo vệ môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, Kế hoạch hành động quốc gia về Tăng trưởng xanh đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 403 ngày 20/3/2014. Đây là cách tiếp cận phát triển mới, được xuất hiện gắn liền với bối cảnh tác động to lớn của biến đổi khí hậu toàn cầu, đang được nhiều quốc gia quan tâm áp dụng trong hoạch định chiến lược phát triển ở thế kỷ này. Bởi "Nền kinh xanh" là nền kinh tế có mức phát thải thấp, sử dụng hiệu quả tài nguyên và hướng tới công bằng xã hội.

 

Muốn thực hiện "Nền kinh tế xanh", nước ta sẽ gặp phải những thách thức đòi hỏi phải nỗ lực vượt qua. Trước hết là về nhận thức, hiểu thế nào là một "Nền kinh tế xanh” đầy đủ. Đòi hỏi phải có những nghiên cứu và phổ biến rộng rãi kiến thức trong tầng lớp lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách, các doanh nghiệp và người dân. Nếu không nhận thức đầy đủ, tính đồng thuận trong xã hội sẽ không đạt được, do vậy sẽ khó thực hiện.

 

Về cách thức tiến hành, so với nền kinh tế truyền thống “Nền kinh tế nâu”, xây dựng mô hình mới “Nền kinh tế xanh”, thay đổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế có sự khác biệt như thế nào và bắt đầu từ đâu trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay, là vấn đề lớn đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách để xây dựng lộ trình thực hiện.

 

"Nền kinh tế xanh" gắn với sử dụng năng lượng tái tạo, xây dựng xã hội Cacbon thấp, tăng trưởng xanh, đầu tư khôi phục hệ sinh thái, giải quyết sinh kế gắn với phục hồi môi trường...Thực tế công nghệ sản xuất ở Việt Nam hiện nay so với thế giới phần lớn là công nghệ cũ, tiêu hao năng lượng lớn, việc thay đổi công nghệ mới phù hợp với nền kinh tế xanh là thách thức không nhỏ, nếu không có trợ giúp về vốn và công nghệ của các nước có công nghệ cao trên thế giới.

 

Với hơn 70% dân số sống ở nông thôn, sản xuất nông nghiệp là chính. Nhiều vùng nông thôn và khu vực miền núi sinh kế của người dân còn gặp nhiều khó khăn. Phát triển “Kinh tế xanh” phải gắn với xóa đói giảm nghèo và an sinh xã hội cũng là thách thức không hề nhỏ. Cộng với huy động nguồn vốn cho việc thực hiện mục tiêu "Nền kinh tế xanh" trong khi tích lũy quốc gia còn quá thấp.

 

Cơ chế chính sách hướng tới thực hiện “Nền kinh tế xanh” của nước ta hiện mới chỉ là chủ trương, chiến lược và ban hành kế hoạch hành động, trong khi trên thế giới cũng mới đề xuất hướng tiếp cận “Nền kinh tế xanh” từ năm 2012. Việc rà soát lại cơ chế chính sách liên quan và sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với mô hình phát triển mới theo hướng cơ cấu lại ngành kinh tế và hướng tới “Nền kinh tế xanh” là thách thức rất lớn.

 

Tuy vậy, Việt Nam vẫn có những cơ hội đáng kể khi thực hiện “Nền kinh tế xanh”. Vì sự quan tâm lớn nhất của cộng đồng quốc tế là biến đổi khí hậu. Nhằm giảm thiểu và thích ứng, các quốc gia đang có nhiều nỗ lực, trong đó phát triển kinh tế “Cacbon thấp”, “Tăng trưởng xanh” đang là những xu hướng mới trong lộ trình tiến tới “Nền kinh tế xanh”. Do đó Việt Nam sẽ nhận được sự ủng hộ và giúp đỡ của các quốc gia và các tổ chức quốc tế, để chung tay đối phó với biến đổi khí hậu toàn cầu.

 

Sau 30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế, Việt Nam từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hướng tới sự phát triển vì con người. Những yếu tố đó được thực hiện trong một môi trường chính trị ổn định, là cơ hội tốt cho triển khai thực hiện “Nền kinh tế xanh”.

 

Hiện Việt Nam đang đẩy mạnh “Tái cơ cấu nền kinh tế gắn với mô hình tăng trưởng” là nhiệm vụ hàng đầu, nhất là chuẩn bị cho giai đoạn phát triển mới 2016-2020. Đây là cơ hội để Việt Nam hướng tới “Nền kinh tế xanh”, trong đó việc thực hiện “Tăng trưởng xanh” là trụ cột hướng tới phát triển bền vững.

 

Với lợi thế tiềm lực con người, lợi thế nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa Đông Nam Á, có nguồn năng lượng mặt trời dồi dào, năng lượng gió phong phú, sinh vật tăng trưởng nhanh. Vì vậy sẽ là những yếu tố hội tụ giúp Việt Nam tham gia các chương trình mục tiêu thiên nhiên kỷ, để hướng tới “Nền kinh tế xanh” và thực hiện thành công Chiến lược “Tăng trưởng xanh” đang quá trình hoàn thiện.

 

* Định hướng thực hiện

 

Theo nghiên cứu của Tiến sĩ Patrica, Đại học Copenhagen Đan Mạch: Lượng tài sản thiên nhiên của Việt Nam gồm 36% đất nông nghiệp, 38% khoáng sản và các thành phần khác chiếm 26%. Trong đó 9 triệu ha đất nông nghiệp thuộc loại tốt hàng đầu của thế giới. Ngoài đồi núi bao la, Việt Nam còn có bờ biển dài trên 3.200km, cùng hàng nghìn, hàng triệu ha diện tích mặt nước sông ngòi, tạo thành nguồn lực “trời cho” hiếm có so với nhiều nước trên thế giới.

 

Hướng tới “Nền kinh tế xanh”, nếu Việt Nam biết phát huy lợi thế nguồn vốn tự nhiên, khắc phục được những tồng tại hạn chế của các nước trên thế giới đã gặp phải, Việt Nam không chỉ đạt mục tiêu phát triển bền vững từ thực hiện “Nền kinh tế xanh”, mà còn rút ngắn khoảng cách phát triển, tạo ra thế ổn định về mặt chính trị, góp phần xóa đói giảm nghèo.

 

Về cơ chế chính sách thực hiện “Nền kinh tế xanh”, Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thế Chinh đề xuất: Trên cơ sở cương lĩnh định hướng Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2011-2015, tầm nhìn 2020, chúng ta cần tập trung vào điều kiện thuận lợi cho đổi mới mô hình tăng trưởng. Trọng tâm là cơ cấu lại ngành nghề, ưu tiên phát triển các ngành công nghệ cao, phát thải Cacbon thấp; công nghệ thân thiện môi trường; sử dụng tiết kiệm năng lượng và tài nguyên; tái sử dụng, tái chế chất thải; không gây ô nhiễm môi trường; phục hồi tài nguyên và hệ sinh thái.

 

Về nhận thức, tập trung tuyên truyền, giáo dục định hướng thay đổi nhận thức trước đây của xã hội từ nền “Kinh tế nâu” sanh nền “Kinh tế xanh”. Trong hệ thống giáo dục chuyên nghiệp, đổi mới giáo trình bài giảng theo hướng tiếp cận phát triển “Nền kinh tế xanh”. Nâng cấp nội dung “Kinh tế môi trường” và “Kinh tế tài nguyên thiên nhiên” truyền thống theo hướng giảng dạy “Kinh tế xanh”.

 

Đầu tư cho phát triển khoa học công nghệ trong nghiên cứu, hợp tác nghiên cứu các lĩnh vực ngành nghề trong nội hàm của “nền kinh tế xanh, như sử dụng năng lượng tái tạo, công nghệ sản xuất tiết kiệm tài nguyên, tiêu hao ít năng lượng, công nghệ giảm thiểu phát thải khí nhà kính; hạn chế tối đa gây ô nhiễm; phục hồi hệ sinh thái tự nhiên; định hướng lại đầu tư công, hướng tới mức đầu tư khoảng 2% tổng chi ngân sách hàng năm cho khôi phục hệ sinh thái và bảo vệ môi trường.

 

Cải cách lại hệ thống thuế tài nguyên, xem xét lại thuế môi trường hướng đến phát triển “Nền kinh tế xanh” được điều chỉnh, thông qua công cụ kinh té và cơ chế tài chính, thuế khóa nhằm khuyến khích tiết kiệm và sử dụng hiệu quả tài nguyên, nhất là tài nguyên quý hiếm. Đối với chỉ tiêu kinh tế vĩ mô cần có sự đổi mới, xem xét lại và hoàn thiện chỉ tiêu GDP xanh; cải tiến hệ thống SNA phản ánh đủ các chỉ tiêu tính toán môi trường trong hạch toán môi trường trong hạch toán cân đối tài khoản quốc gia. Cùng với quá trình này, xây dựng hệ thống hạch toán tài nguyên, trước mắt là tài nguyên rừng, nước, khoáng sản với những tài khoản vệ tinh, tiến tới hệ thống tài khoản đầy đủ với sự trợ giúp của quốc tế.

 

Tích cực hợp tác quốc tế trong nỗ lực xây dựng “Nền kinh tế xanh” ở Việt Nam . Huy động các nguồn lực hỗ trợ quốc tế, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư 2% GDP toàn cầu cho phát triển “Kinh tế xanh”. Các cơ chế tài chính khác cho phát triển rừng như REDD+; CDM.../.