Phát hiện ung thư sớm để điều trị kịp thời

16:03, 04/07/2016

Gây nguy cơ tử vong thứ hai sau các bệnh tim mạch, bệnh ung thư đang là nỗi nhức nhối của xã hội và y học hiện đại. Trung bình, mỗi năm ở nước ta có tới 125 nghìn người mắc mới và con số này đang có xu hướng gia tăng qua các năm. Hiệu quả điều trị ung thư phụ thuộc nhiều vào giai đoạn tiến triển của bệnh. Nếu phát hiện sớm, bệnh nhân có cơ hội khỏi bệnh ngược lại, nguy cơ tử vong rất cao đối với bệnh nhân phát hiện bệnh muộn.

Chỉ 20% bệnh nhân ung thư được phát hiện sớm

 

Sáu năm trước, chị Nguyễn Thị H, 36 tuổi ở xã Phúc Thuận (Phổ Yên) đến khám sàng lọc ung thư tại Bệnh viện C và phát hiện u nhỏ có đường kính 1,5 cm. Với phát hiện quan trọng vào giai đoạn sớm, khối u nhỏ, chị H. được chỉ định phẫu thuật và hóa trị liệu trong 1 thời gian. Đến nay, chị H. đã hoàn toàn khỏi bệnh và sống khỏe mạnh bình thường. Mặc dù vậy, chị H. vẫn duy trì khám sàng lọc hàng năm để phát hiện ra các nguy cơ gây ung thư trong cơ thể mình.

 

Tuy nhiên, không phải bệnh nhân ung thư nào cũng may mắn như chị H. Theo thống kê của Bộ Y tế, mỗi năm, cả nước phát hiện khoảng 125 nghìn bệnh nhân mắc ung thư trong đó, chỉ có 20% người bệnh phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm và điều trị khỏi. 80% bệnh nhân còn lại phát hiện muộn và khiến bệnh nhân tử vong nhanh chóng. Riêng với Thái Nguyên, có khoảng 800 trong tổng số 1 nghìn bệnh nhân ung thư phát hiện mỗi năm rơi vào giai đoạn bệnh muộn và không thể chữa khỏi. Chỉ có khoảng 200 bệnh nhân được chữa khỏi do được phát hiện bệnh sớm và điều trị kịp thời.

 

Tiến sĩ Đoàn Văn Khương, Trưởng khoa Ung bướu, Bệnh viện C cho biết: Mấu chốt để chữa khỏi và giảm gánh nặng của bệnh ung thư là dự phòng và phát hiện sớm. Tuy nhiên, rất nhiều trường hợp bệnh nhân do thiếu kiến thức về ung thư nên khi đến bệnh viện khám thì bệnh đã ở giai đoạn rất muộn dẫn đến cái chết rất thương tâm. Những bệnh nhân có bệnh bước vào giai đoạn muộn, không có khả năng điều trị khỏi thì cần chăm sóc giảm nhẹ, hướng dẫn chi tiết để giảm nhẹ tổn thất về kinh tế và tinh thần cho gia đình.

 

Cần phải tầm soát ung thư

 

Theo Tiến sĩ Đoàn Văn Khương, để giảm gánh nặng, giảm quy cơ tử vong do bệnh ung thư, cần thực hiện tầm soát, phát hiện sớm bệnh ung thư. Mỗi người nên thực hiện kiểm tra sức khỏe toàn diện định kỳ ba năm một lần ở lứa tuổi 20-40 và mỗi năm một lần nếu trên 40 tuổi. Việc tầm soát ung thư trong giai đoạn này nên chú ý vào tuyến giáp, miệng, da, các hạch limphô, tinh hoàn, vú và buồng trứng... Riêng với phụ nữ đã lập gia đình hoặc đã có quan hệ tình dục nên đi thử tế bào âm đạo và khám phụ khoa hằng năm để phát hiện sớm các bệnh viêm nhiễm liên hệ với virus HPV. Phụ nữ trong độ tuổi 20-39 cũng nên khám vú hằng tháng và siêu âm kiểm tra ngực ít nhất 3 năm/lần. Từ 50 tuổi, cả nam lẫn nữ nên làm một trong các xét nghiệm: thử tìm máu trong phân hằng năm và nội soi trực tràng, nội soi ruột.

 

Với người có nguy cơ cao viêm gan siêu vi, từ 40 tuổi trở lên nên khám lâm sàng và siêu âm bụng 2-3 năm/lần để tầm soát ung thư gan. Ngoài ra, bước vào tuổi này, người có bệnh sử viêm loét dạ dày nên được nội soi dạ dày, có thể kèm thêm thử tìm vi khuẩn Helicobacter pylori và chụp dạ dày có cản quang để phát hiện sớm ung thư dạ dày. Từ tuổi 60, đàn ông nên được thử dấu hiệu sinh học có thể kèm thêm thăm khám trực tràng để phát hiện ung thư tuyến tiền liệt. Đàn ông trên 40 tuổi nghiện thuốc lá nặng trên 10 năm nên chụp phim phổi 1-2 năm/lần.

 

Được biết, trung bình mỗi năm, Bệnh viện C thực hiện khám sàng lọc cho hàng nghìn lượt bệnh nhân với các biện pháp như: Siêu âm gan, xét nghiệm AFP sàng lọc ung thư gan; xét nghiệm PAP sàng lọc ung thư cổ tử cung; nội soi sàng lọc ung thư dạ dày, đại tràng….; siêu âm và xét nghiệm PSA sàng lọc ung thư tuyến tiền liệt; khám lâm sàng các tổn thương trên da, niêm mạc các dấu hiệu u cục, hạch, các tổn thương tiền ung thư và sàng lọc một số ung thư khác... như ung thư tuyến giáp, u lympho... Qua đó, Bệnh viện đã phát hiện sớm được hàng chục trường hợp ung thư và chữa khỏi bệnh cho bệnh nhân. Bên cạnh đó, hơn 7 năm triển khai điều trị ung bướu, các kỹ thuật chuyên sâu về chẩn đoán và điều trị ung thư tại Bệnh viện C không ngừng được nâng cao. Hiện, Bệnh viện có thể thực được toàn bộ các đơn nguyên điều trị: Phẫu thuật, hóa trị, xạ trị, chăm sóc giảm nhẹ, phòng khám và giải phẫu bệnh. Riêng trong phẫu thuật, Bệnh viện đã thực hiện các ca phẫu thuật khó như phẫu thuật ung thư đại trực tràng, ung thư dạ dày, ung thư vú, ung thư tuyến giáp…