Tận dụng thời kỳ cơ cấu dân số vàng

15:04, 02/03/2017

Việt Nam đã chính thức bước vào thời kỳ cơ cấu dân số vàng từ năm 2007, với lực lượng lao động trẻ dồi dào. Từ đó đến nay, sau 10 năm, nước ta đã đạt được nhiều tiến bộ trong tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, theo dự báo của Tổng cục Thống kê, thời kỳ dư lợi dân số này sẽ kéo dài khoảng 34 năm và kết thúc vào khoảng năm 2041. Đặc biệt, thời kỳ dân số vàng và già hóa dân số ở nước ta diễn ra cùng một lúc, do vậy, Việt Nam cần có những chính sách phù hợp để tận dụng các cơ hội dân số, thúc đẩy phát triển đất nước.

Theo Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (Bộ Y tế), một trong những đặc điểm nổi bật của dân số nước ta hiện nay là mức sinh giảm, làm cho tỷ trọng dân số dưới 15 tuổi của Việt Nam giảm từ 42% vào năm 1979 xuống còn 25% vào năm 2015. Ngược lại, tỷ trọng dân số trong độ tuổi lao động (15-64) tăng từ 53% lên 68,4% (2015). Việt Nam đang ở thời kỳ cơ cấu dân số vàng với khoảng 63 triệu người trong độ tuổi lao động – nền tảng cơ hội vàng cho Việt Nam có thể thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tỷ trọng nhóm dân số dưới 15 tuổi cũng mang đến cơ hội lớn cho việc tăng nguồn lực đầu tư cho y tế, giáo dục, phát triển.

 

Dân số trong độ tuổi lao động tăng nhanh còn giúp cho thị trường tiêu thụ được mở rộng. Bởi dân số trong thời kỳ này vừa là lực lượng sản xuất chủ lực vừa là lực lượng tiêu dùng chính. Nhiều nghiên cứu trong những năm gần đây đã chứng minh, chi phí tiêu dùng tăng nhanh theo tuổi và đạt mức lớn nhất trong nhóm tuổi từ 25-29 và duy trì ở mức cao cho đến 45 tuổi thì giảm gần tới mức trung bình.

 

Trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng, số lượng trẻ em giảm cũng giúp Việt Nam có điều kiện để tái cấu trúc, nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, đặc biệt là bậc mầm non, tiểu học và trung học cơ sở.

 

Tuy nhiên, theo phân tích của các các chuyên gia về dân số, cơ hội cũng đi liền với thách thức. Dân số trong độ tuổi lao động của nước ta chiếm tỷ trọng lớn nhưng tỷ lệ tham gia lực lượng chưa cao, thống kê năm 2015 cho thấy, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động mới chiếm khoảng 78,8% dân số. Khoảng 70% dân số sống và khoảng 48% lao động đang làm việc ở khu vực nông nghiệp, nông thôn - khu vực tạo ra giá trị gia tăng thấp. Bên cạnh đó, tỷ lệ thất nghiệp, đặc biệt là thất nghiệp của thanh niên từ 15 đến 24 tuổi chậm được cải thiện, vẫn có tới 7,21% lao động thanh niên chưa có việc làm. Đi cùng với đó là chất lượng nguồn nhân lực chưa cao. Theo số liệu thống kê, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ mới đạt 20,2% trên tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế.

 

Một thách thức nữa của nước ta hiện nay là số lượng người già có xu hướng tăng nhanh trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng, làm phát sinh nhiều nhu cầu mới về chi trả lương hưu, bảo hiểm, hệ thống y tế, dịch vụ chăm sóc sức khỏe đặc thù cho nhóm dân cư này.

 

Theo vòng đời, thu nhập từ lao động sẽ tăng nhanh từ 14 - 31 tuổi, sau đó bắt đầu giảm dần tới năm 51 tuổi và tiếp tục giảm nhanh đến 70 tuổi và về 0 khi đến tuổi 90. Số liệu điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2012 cho thấy, dân số trong độ tuổi 23 - 53 tạo ra thặng dư khoảng 632.000 tỉ đồng, trong khi dân số trong độ tuổi 0 - 23 và từ 54 tuổi trở lên tương ứng tạo thâm hụt khoảng 552.000 tỉ đồng. Tổng cộng cho toàn bộ dân số thì mức thâm hụt là khoảng 109.000 tỉ đồng. Để bù đắp cho phần thâm hụt này thì một phần được chia sẻ từ nguồn thặng dư do nhóm dân số tuổi từ 23 - 53 tạo ra và phần khác là từ các khoản chuyển giao khác. Với xu hướng già hóa dân số ngày càng nhanh trong tương lai, thâm hụt của nhóm cao tuổi ngày càng tăng thì thách thức chính sách đảm bảo an sinh xã hội là không nhỏ.

 

Thực tế chứng minh, nhiều nước trong khu vực và thế giới đã phát triển rất mạnh ở giai đoạn cơ cấu dân số vàng. Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore đã tận dụng tốt cơ hội nhân khẩu học, làm nền tảng cho những bước phát triển thần kỳ và trở thành những “con rồng châu Á”. Tuy nhiên, bản thân giai đoạn cơ cấu dân số vàng không mang lại của cải vật chất cho xã hội mà chỉ là cơ hội. Trong giai đoạn cơ cấu dân số vàng, nếu tận dụng được tối đa trí tuệ, sức lao động của lực lượng lao động trẻ thì sẽ tạo ra khối lượng của cải vật chất khổng lồ, tạo ra giá trị tích lũy lớn cho tương lai, đảm bảo an sinh xã hội khi đất nước bước vào gia đoạn “dân số già”.

 

Những giải pháp khai thác triệt để cơ hội của cơ cấu dân số vàng, không chỉ nhằm phát huy lực lượng lao động dồi dào ở giai đoạn này để làm ra khối lượng của cải vật chất nuôi sống bản thân họ, mà quan trọng không kém là còn tạo nên thặng dư để bảo đảm cuộc sống cho các nhóm dân số phụ thuộc trong cùng thời kỳ.

 

Trong giai đoạn này, các nước như Việt Nam cần có những bước đi quyết định nhằm tối đa hóa lợi tức dân số, thúc đẩy định hướng việc làm và tạo ra những công việc chất lượng và năng suất cao hơn. Bên cạnh đó, cần giải quyết vấn đề mất cân đối về giới, huy động các nguồn tiết kiệm và chuyển hướng hoạt động sản xuất cho phù hợp.

 

Việt Nam cũng cần học hỏi mô hình chuyển đổi ở Singapore hoặc Bắc Âu nhằm ứng phó với già hóa dân số, vì già hóa không hoàn toàn mang ý nghĩa tiêu cực. Việt Nam có thể tận dụng trí tuệ, kinh nghiệm của người cao tuổi trong mọi mặt của đời sống, cả kinh tế cũng như văn hóa.

 

Để không mất cơ hội trong thời kỳ dân số “vàng”, Việt Nam cần tập trung đào tạo lao động có trọng điểm, chú ý đến lợi thế vùng miền. Bên cạnh đó, cần chuẩn bị đội ngũ lao động kế cận cho giai đoạn già hóa dân số. Nhìn xa hơn, thời kỳ dân số vàng và già hóa dân số ở nước ta diễn ra cùng một lúc, vậy nên Nhà nước cần có những chính sách nhằm tận dụng ở mức cao nhất đối với bộ phận dân số là người cao tuổi, khuyến khích họ tham gia vào phát triển kinh tế, xã hội, nhất là đối với những người độ tuổi từ 55 - 75 còn sức khỏe, có nhiều kiến thức, kinh nghiệm.