Ngân sách nhà nước hỗ trợ 95% chi phí sàng lọc, đánh giá mức độ nghiện, thực hiện các dịch vụ xét nghiệm y tế theo chỉ định của bác sĩ.
Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 80/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 147/2003/NĐ-CP ngày 2/12/2003 của Chính phủ quy định về điều kiện, thủ tục cấp giấp phép và quản lý hoạt động của cơ sở cai nghiện ma túy tự nguyện; Nghị định 135/2004/NĐ-CP ngày 10/6/2004 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, tổ chức hoạt động của cơ sở chữa bệnh theo Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và chế độ áp dụng đối với người chưa thành niên, người tự nguyện vào cơ sở chữa bệnh.
Nghị định số 80/2018/NĐ-CP bổ sung Điều 2a chế độ chính sách đối với người đi cai nghiện ma túy tự nguyện. Cụ thể, chế độ chính sách đối với người cai nghiện ma túy tự nguyện theo quy định tại Nghị định này được ngân sách nhà nước hỗ trợ theo quy định tại Điều 48a và Điều 48b Nghị định số 135/2004/NĐ-CP được bổ sung theo quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 2 Nghị định này.
Chế độ chính sách đối với người cai nghiện ma túy tự nguyện được thực hiện thí điểm từ năm 2018 đến năm 2020 tại 15 cơ sở cai nghiện ma túy ngoài công lập ở 10 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gồm: Sơn La, Thái Nguyên, Hòa Bình, Nghệ An, Hà Nội, T.P Hồ Chí Minh, Đắk Lắk, Đồng Nai, Bình Dương và Cần Thơ.
Bộ Tài chính hướng dẫn cơ chế quản lý tài chính về cai nghiện ma túy tự nguyện tại các cơ sở cai nghiện ma túy ngoài công lập.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và UBND các tỉnh, thành phố thí điểm kiểm tra, theo dõi, đánh giá, tổng kết, báo cáo Chính phủ.
Thời gian cai nghiện ma túy tự nguyện tối thiểu là 6 tháng, gồm: Điều trị cắt cơn, giải độc và phục hồi sức khỏe; giáo dục, phục hồi hành vi, nhân cách; lao động trị liệu, tư vấn hướng nghiệp, dạy nghề, chuẩn bị tái hòa nhập cộng đồng; phòng, chống tái nghiện.
Thời gian điều trị cắt cơn, giải độc, điều trị rối loạn tâm thần và phục hồi sức khỏe tối thiểu là 20 ngày.
Nghị định số 80/2018/NĐ-CP bổ sung Điều 48a chế độ, chính sách đối với người đi cai nghiện ma túy tự nguyện. Ngân sách nhà nước bảo đảm tiền thuốc cắt cơn, giải độc, điều trị rối loạn tâm thần cho người cai nghiện ma túy tự nguyện tại các cơ sở cai nghiện công lập.
Ngân sách nhà nước hỗ trợ 95% chi phí sàng lọc, đánh giá mức độ nghiện, thực hiện các dịch vụ xét nghiệm y tế theo chỉ định của bác sĩ; điều trị nhiễm trùng cơ hội và thuốc chữa bệnh thông thường đối với các đối tượng gồm: Thương binh; người bị nhiễm chất độc hóa học và suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên; người thuộc hộ nghèo; người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa; trẻ em mồ côi; người khuyết tật nặng và đặc biệt nặng.
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh căn cứ khả năng cân đối ngân sách và dự kiến số lượng người tham gia cai nghiện ma túy tự nguyện tại các cơ sở công lập thuộc phạm vi quản lý quyết định mức hỗ trợ cao hơn, đối tượng mở rộng hơn ngoài chế độ quy định trên; mức hỗ trợ tiền ăn hàng tháng, tiền mặc, đồ dùng sinh hoạt cá nhân ít nhất bằng 70% định mức đối với người nghiện ma túy bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào sơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại Nghị định số 136/2016/NĐ-CP ngày 9/9/2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào sơ sở cai nghiện bắt buộc.
Nguồn kinh phí thực hiện chế độ, chính sách đối với người cai nghiện ma túy tự nguyện do ngân sách địa phương bảo đảm theo phân cấp của Luật Ngân sách Nhà nước.
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 5/7/2018; bãi bỏ Điều 19, Điều 20 và Điều 22 Nghị định số 147/2003/NĐ-CP; bãi bỏ Điều 26, Điều 27 và Điều 49 Nghị định số 135/2004/NĐ-CP.