80 năm - những chặng đường vẻ vang của ngành Tuyên giáo Đảng

16:02, 26/07/2010

Phần I. Sự ra đời của Ban cổ động và tuyên truyền của Đảng (tiền thân của Ban Tuyên giáo trung ương)

 

1. Bối cảnh lịch sử

 

Cuối thế kỷ XIX, sau khi thiết lập được chế độ thuộc địa ở Việt Nam, thực dân Pháp bắt tay thực thi các chính sách thực dân tàn bạo, hà khắc, biến nước ta từ một nước phong kiến độc lập trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước và nô lệ, bị thực dân, phong kiến áp bức, bóc lột rất tàn bạo. Vì vậy, trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam bị áp bức với thực dân Pháp xâm lược. Để xã hội Việt Nam thoát khỏi chế độ thuộc địa nửa phong kiến, có hai yêu cầu đặt ra trước dân tộc: một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; hai là, xoá bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.

 

Từ năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam đến trước năm 1930, nhân dân ta đã liên tiếp tiến hành hàng trăm cuộc khởi nghĩa chống Pháp. Tiêu biểu là Phong trào Cần Vương (phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến, do sĩ phu, văn thân yêu nước lãnh đạo) mà đỉnh cao là Cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng. Phong trào nông dân, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài mấy chục năm. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh khởi xướng. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học (lãnh tụ của tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng) lãnh đạo…

 

Các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc tuy diễn ra quyết liệt, song cuối cùng đều bị thất bại do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu một tổ chức lãnh đạo có khả năng tập hợp sức mạnh của toàn dân tộc. Thực tiễn đó cho thấy, trước sự xâm lược của thực dân Pháp, hệ tư tưởng phong kiến không còn đủ sức lãnh đạo phong trào cứu nước, cứu dân. Hệ tư tưởng tư sản chưa có điều kiện phát triển ở nước ta. Cách mạng Việt Nam ở trong tình trạng khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.

 

2. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

 

Ngày 5 tháng 6 năm 1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước. Người đã đến nhiều nước trên thế giới, làm nhiều nghề lao động khác nhau, tìm hiểu, nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc và đời sống nhân dân các nước thuộc địa. Ngày 18 tháng 6 năm 1919, Nguyễn Ái Quốc thay mặt những người Việt Nam yêu nước, đã ký tên vào bản yêu sách gửi tới đại biểu tham dự Hội nghị quốc tế ở Vécxây. Bản yêu sách đồng thời được đăng tải trên các báo L’Humanité (Nhân Đạo) và Journal du Peuple (Nhật báo Dân Chúng) của Đảng Xã hội Pháp. Bản yêu sách đòi hỏi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và bình đẳng của nhân dân Việt Nam. Sự kiện này đã gây một tiếng vang chính trị lớn. Sau đó, nội dung bản yêu sách được chuyển tải sang thể thơ lục bát với tên gọi “Việt Nam yêu cầu ca” và in dưới dạng truyền đơn gửi tới các tòa báo, phân phát trong các cuộc hội họp, mít tinh ở nhiều tỉnh nước Pháp và bí mật chuyển về Việt Nam qua con đường các thủy thủ và khách về nước nhằm truyền bá rộng rãi hơn những quyền lợi cơ bản mà nhân dân Việt Nam cần đấu tranh để giành lấy.

 

Qua thời gian khảo nghiệm thực tiễn, năm 1920, Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Lênin. Đây không chỉ là bước ngoặt đối với cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, mà còn là bước ngoặt của cách mạng Việt Nam. Lý luận của chủ nghĩa Lênin đã soi đường cho Nguyễn Ái Quốc, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc thì trước hết phải có “Đảng cách mệnh để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”. Từ nhận thức đó, Nguyễn Ái Quốc ra sức chuẩn bị mọi mặt cho việc thành lập một chính đảng vô sản ở Việt Nam, mà trước hết là truyền bá chủ nghĩa Lênin và con đường cứu nước vào Việt Nam.

 

Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập ra báo “Người cùng khổ” năm 1922, báo “Thanh Niên” ngày 21-6-1925 và tích cực viết tài liệu, sách, báo để truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào trong nước. Các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc: “Bản án chế độ thực dân Pháp” xuất bản năm 1925, “Đường cách mệnh” tập hợp những bài giảng tại lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu in năm 1927, các bài báo viết về Lê-nin, về Cách mạng Tháng Mười Nga, về giai cấp công nhân… là những tài liệu truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam đầu tiên. Những tài liệu này đã có tác dụng thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam, cuốn hút mạnh mẽ đối với  tầng lớp trí thức tiến bộ và những người tiên tiến trong giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nó không chỉ vạch trần bộ mặt áp bức, bóc lột tàn bạo của chế độ thực dân Pháp và bè lũ phong kiến tay sai, kêu gọi nhân dân ta vùng lên đấu tranh xóa bỏ gông cùm nô lệ, mà còn chỉ ra con đường đi đến thắng lợi, chỉ ra xu thế tất yếu của dân tộc và thời đại, đó là con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

 

Nguyễn Ái Quốc cùng với những người cộng sản rất coi trọng vai trò tuyên truyền, cổ động thông qua việc xuất bản, phát hành báo và tạp chí cách mạng. Trước khi thành lập Đảng, các tổ chức cộng sản đã xuất bản 37 tờ báo, tạp chí làm công tác tuyên truyền, cổ động, tổ chức phong trào cách mạng. Báo chí cách mạng trước khi có Đảng đã góp phần tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, đẩy mạnh phong trào đấu tranh và chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, tổ chức cho sự thành lập Đảng.

 

Cùng với các hoạt động tuyên truyền qua sách báo từ nước ngoài gửi về nước và báo chí xuất bản ở trong nước, Nguyễn Ái Quốc trực tiếp tổ chức các lớp huấn luyện cán bộ để bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ cho phong trào. Trong thời gian từ 1925 đến 1929, Nguyễn Ái Quốc đã gửi 27 thanh niên Việt Nam sang đào tạo ở trường Đại học Phương Đông (Liên Xô), trong đó có Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập. Cũng trong thời gian từ 1925 - 1927, khi hoạt động ở Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc tổ chức các lớp huấn luyện chính trị cho thanh niên yêu nước Việt Nam. Lớp đầu tiên mở vào khoảng cuối năm 1925, đầu năm 1926 với 10 học viên. Mỗi lớp khoảng một tháng rưỡi. Các học viên được nghiên cứu về tình hình thế giới, lịch sử tiến hóa nhân loại, phong trào giải phóng dân tộc ở một số nước, chủ nghĩa Tam Dân, chủ nghĩa Mác - Lênin, Cách Mạng Nga, lịch sử các tổ chức Quốc tế I, Quốc tế II và Quốc tế cộng sản, các hình thức tổ chức đảng, tổ chức quần chúng, các hình thức tuyên truyền, cổ động, diễn thuyết, làm báo… Nguyễn Ái Quốc đã trực tiếp huấn luyện 75 học viên. Tính đến tháng 4/1927 đã có 10 lớp huấn luyện với khoảng 250 - 300 học viên, đại đa số học viên học xong đã trở về Việt Nam, về Xiêm hoạt động cách mạng. Một số được gửi đi học tiếp ở Đại học Phương Đông. Những cán bộ đầu tiên được Nguyễn Ái Quốc đào tạo đã trở thành những chiến sĩ cộng sản ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, đẩy lui các khuynh hướng cải lương và dân tộc hẹp hòi của các đảng phái tư sản và tiểu tư sản, đấu tranh chống lại các khuynh hướng “tả” và “hữu” để kiên định bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Những cán bộ cốt cán được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc huấn luyện, đào tạo, về nước đẩy mạnh vận động cách mạng, thúc đẩy phong trào công nhân yêu nước phát triển mạnh mẽ. Đến năm 1929 ở Việt Nam đã ra đời 3 tổ chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản đảng, An Nam Cộng sản đảng, Đông Dương Cộng sản liên đoàn. Sự ra đời và hoạt động của 3  tổ chức cộng sản cùng mục đích, tôn chỉ đã đặt ra yêu cầu và điều kiện chín muồi cho sự thống nhất 3 tổ chức cộng sản thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 3/2/1930, dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị hợp nhất các tổ chức đảng cộng sản đã nhất trí thành lập một tổ chức đảng thống nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm. Trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do đồng chí Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, được Hội nghị thành lập Đảng thông qua đã xác định cách mạng Việt Nam phải tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con đường cách mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người.

 

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Người đầu tiên truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, Người thầy vĩ đại, đặt nền móng đầu tiên cho công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam

 

3. Sự kiện ngày 1 tháng 8 và Ngày truyền thống Ngành Tuyên giáo của Đảng

 

Cách đây 80 năm, ngày 1/8/1930, Ban Cổ động và Tuyên truyền của Đảng Cộng sản Việt Nam đã cho xuất bản tài liệu “Ngày quốc tế đỏ 1/8” nhân dịp kỷ niệm ngày quốc tế đấu tranh chống chiến tranh đế quốc, bảo vệ hòa bình, bảo vệ Liên bang Xô-viết, ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc, kêu gọi binh lính đoàn kết với nhân dân, hưởng ứng cuộc đấu tranh chống chiến tranh đế quốc. Đây là tài liệu duy nhất, sớm nhất còn lưu giữ cho đến nay đề rõ “Ban Cổ động và Tuyên truyền của Đảng Cộng sản Việt Nam ấn hành”. Tài liệu này khi vừa được phát hành đã gây được dư luận rất lớn trong xã hội đương thời và có sức cổ vũ to lớn đối với quần chúng công nông nước ta đứng lên đấu tranh chống chiến tranh đế quốc, bảo vệ Liên bang Xô-viết, ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc. Kể từ ngày 1 tháng 8 đến tháng 10 năm 1930, trong cả nước đã nổ ra hàng trăm cuộc mít tinh, biểu tình của nhân dân ta.

 

Từ đó, ngày 1/8 trở thành một mốc lớn trong lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, gắn liền với sự ra đời của một tài liệu lịch sử quý giá, đánh dấu một hoạt động rất có ý nghĩa trong công tác tuyên giáo của Đảng.

 

Căn cứ vào những tài liệu và sự kiện lịch sử có ý nghĩa đặc biệt này, năm 2000, Bộ Chính trị Trung ương Đảng (Khoá VIII) quyết định lấy ngày 1-8 hằng năm làm Ngày Truyền thống công tác tư tưởng, văn hoá của Đảng. Năm 2007, sau khi Ban Tư tưởng – Văn hoá Trung ương và Ban Khoa giáo Trung ương hợp nhất thành Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá X) quyết định lấy ngày 1-8 hằng năm làm Ngày truyền thống công tác Tuyên giáo của Đảng.

 

Ngày truyền thống của Ngành Tuyên giáo 1/8 mang ý nghĩa chính trị, tư tưởng, văn hoá sâu sắc:

 

- Đó là một mốc son lịch sử đánh dấu sự ra đời, trưởng thành ngày càng vững mạnh của lĩnh vực công tác tuyên giáo của Đảng – lĩnh vực có lịch sử ra đời  sớm nhất trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, khẳng định tầm quan trọng hàng đầu của công tác tư tưởng trong các hoạt động thành lập Đảng Cộng sản cũng như trong công tác lãnh đạo của Đảng. Trải qua lịch sử 80 năm xây dựng và phát triển, cơ quan chuyên trách làm công tác tuyên giáo của Đảng đã có những tên gọi khác nhau và có những lần chia tách, hợp nhất cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của mỗi giai đoạn cách mạng, nhưng trong bất cứ giai đoạn cách mạng nào, lĩnh vực tuyên giáo cũng luôn giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong công tác lãnh đạo của Đảng.

 

- Đây là dịp để cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp, các ngành và cán bộ làm công tác tuyên giáo nhận thức sâu sắc hơn về vai trò, vị trí của công tác tuyên giáo, coi đó là lĩnh vực đặc biệt quan trọng trong hoạt động lãnh đạo của Đảng. Công tác tuyên giáo bao gồm các lĩnh vực: lý luận chính trị, tư tưởng, văn hoá, khoa học, giáo dục... nó tác động đến tư tưởng, trí tuệ, tình cảm của con người một cách tinh tế, nhạy bén, đòi hỏi phải không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ đảng với những yêu cầu ngày càng cao mới đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn.

 

- Là dịp để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta ôn lại và phát huy truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng trên lĩnh vực công tác tuyên giáo. Qua đó, góp phần củng cố, giữ vững trận địa tuyên giáo của Đảng, bảo đảm sự thống nhất về chính trị, tư tưởng, kiên định các nguyên tắc, nâng cao niềm tin trong Đảng và nhân dân. Đây cũng là dịp các cấp uỷ đảng tăng cường quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên giáo; cơ quan quản lý nhà nước các cấp tăng cường mối quan hệ, phối hợp công tác với ban tuyên giáo các cấp trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao.

 

- Thông qua các hoạt động kỷ niệm để ôn lại và phát huy truyền thống vẻ vang của Ngành Tuyên giáo, củng cố và tăng cường niềm tin vào mục tiêu lý tưởng, nền tảng tư tưởng của Đảng, bồi đắp thêm niềm tự hào về những đóng góp to lớn của Ngành Tuyên giáo và cuộc chiến đấu vinh quang của các thế hệ đi trước. Đây cũng là dịp để cán bộ ngành tuyên giáo và đông đảo cán bộ, chiến sĩ hoạt động trên các lĩnh vực tuyên giáo ra sức phấn đấu, rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trau dồi phẩm chất đạo đức, biểu thị quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

 

PHẦN II

 

80 năm - những chặng đường vẻ vang của Ngành Tuyên giáo Đảng

 

1. Cao trào cách mạng 1930 - 1931 và Xô-viết Nghệ Tĩnh, thời kỳ Mặt trận Dân chủ, cao trào giải phóng dân tộc và Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám (1930 - 1945)

 

a. Cao trào cách mạng 1930 - 1931 và Xô - viết Nghệ Tĩnh

 

Đảng chủ trương đẩy mạnh công tác tuyên truyền về việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh đạo quần chúng tiếp tục đấu tranh.Việc phổ biến Lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc được tiến hành rộng rãi. Những khẩu hiệu nêu ra phản ánh nguyện vọng bức thiết của quần chúng lao động, đi nhanh vào lòng người, nhờ đó, phong trào cách mạng đã dấy lên mạnh mẽ. Nhiều cuộc bãi công, biểu tình bị địch đàn áp đẫm máu, nhưng không đẩy lùi được khí thế đấu tranh của quần chúng, buộc địch phải có một số nhượng bộ.

 

Sau đợt kỷ niệm ngày 1/5 là đợt kỷ niệm Ngày Quốc tế đỏ 1/8, ngày đấu tranh chống chiến tranh đế quốc; Ban Cổ động và Tuyên truyền của Đảng xuất bản tài liệu Ngày Quốc tế đỏ 1/8, giải thích nguồn gốc chiến tranh đế quốc, kêu gọi chống chiến tranh, bảo vệ hoà bình, bảo vệ Liên bang Xô-viết, ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc. Tài liệu nêu rõ những khẩu hiệu đấu tranh nhân dịp kỷ niệm 1-8 của Ban Cổ động và Tuyên truyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong thời gian này, Đảng còn chú ý đẩy mạnh công tác tuyên truyền, kêu gọi binh lính, đoàn kết với nhân dân hưởng ứng cuộc đấu tranh trong ngày chống chiến tranh đế quốc. Hoạt động này có ảnh hưởng nhất định tới binh lính, ở một số nơi, binh lính đã không bắn vào quần chúng khi họ bị đưa đi đàn áp các cuộc biểu tình.

Thi hành chỉ thị của Quốc tế Cộng sản và quyết định của Hội nghị thành lập Đảng, Đảng xuất bản Tạp chí Đỏ, số đầu ra ngày 5/8/1930, mỗi số 100 bản (in rô-nê-ô) và ngày 15/8/1930 xuất bản báo Tranh đấu.

 

Từ 1/8 đến tháng 10/1930, hàng trăm cuộc đấu tranh của nhân dân nổ ra ngày càng quyết liệt.

 

Do sự đán áp tàn bạo của bọn thống trị, từ tháng 9-1930, phần lớn các cuộc biểu tình của nhân dân có tổ chức lực lượng tự vệ được trang bị giáo mác, gậy gộc, nhiều cuộc đông tới hàng ngàn người, có cuộc lớn tới 2 vạn người (ngày 1/9/1930 ở Thanh Chương, Nghệ An). Từ cuộc đấu tranh của nhân dân Nghệ An, Hà Tĩnh đã phát triển thành cuộc nổi dậy của quần chúng, thành lập chính quyền Xô - viết. Xô-viết đã được thành lập ở trên 300 thôn, xã thuộc Nghệ An, Hà Tĩnh làm nhiệm vụ chính quyền công nông đầu tiên ở nước ta. Công tác tuyên truyền trong nhân dân đã được tiến hành công khai, sâu rộng, trọng tâm là tuyên truyền các chính sách của cách mạng: xoá nợ, giảm tô, chia lại công điền cho nông dân, thủ tiêu mọi thứ thuế, ban bố các quyền dân chủ, xử án bọn phản động, bài trừ hủ tục, tổ chức học văn hoá... Nhiều tờ báo địa phương được xuất bản. Xứ ủy Trung kỳ có báo Người lao khổ, Công nông binh; Nghệ An có báo Tiến lên, các huyện của tỉnh Nghệ An như Hưng Nguyên có báo Sản nghiệp, Thanh Chương có báo Nhà Quê, Quỳnh Lưu có báo Tia sáng, Nam Đàn có báo Giác Ngộ v.v... Thơ ca cách mạng được lưu truyền. Sách báo, tài liệu cách mạng được phổ biến rộng rãi. Hàng đêm nhân dân hội họp nghe cán bộ nói chuyện, đọc sách báo, đi học văn hoá. Thời kỳ Xô-viết Nghệ Tĩnh, công tác giáo dục đã được chú trọng, có 815 lớp học, với 11.626 học sinh và 436 giáo viên[1]. Ở nhiều tỉnh khác, phong trào nông dân cũng phát triển mạnh.

 

Để đối phó với tình hình, bọn đế quốc và tay sai đã điên cuồng phản công, liên tiếp mở các cuộc hành quân đàn áp và dùng nhiều thủ đoạn chia rẽ, lừa bịp. Điển hình cho sự tàn bạo là vụ ném bom tàn sát cuộc biểu tình của nhân dân huyện Hưng Nguyên ngày 12/9/1930. Đảng đã liên tiếp ra thông báo, lời kêu gọi, tuyên bố bảo vệ Xô - viết Nghệ Tĩnh, chống khủng bố[2], chỉ thị cho cấp uỷ Trung kỳ mọi công tác cần thiết và uốn nắn các sai lầm[3]. Các tài liệu trên tố cáo tội ác của bọn đế quốc và tay sai, biểu dương những thắng lợi của Xô - viết Nghệ Tĩnh. Tinh thần dũng cảm hy sinh của cán bộ, nhân dân, ý thức đoàn kết của công, nông và binh lính, kêu gọi toàn Đảng và nhân dân cả nước ủng hộ Xô - viết Nghệ Tĩnh. Các tài liệu còn vạch kế hoạch hướng dẫn công tác tư tưởng, tổ chức và đấu tranh chống khủng bố trắng, bảo vệ phong trào cách mạng và những thắng lợi đã giành được. Công tác tuyên truyền được đặc biệt coi trọng. “Luôn luôn tuyên truyền, tuyên truyền nữa, luôn luôn có những cuộc nói chuyện và những cuộc nói chuyện nữa để cổ vũ, thúc đẩy quần chúng hy sinh cho sự nghiệp chung”[4].

 

Xô - viết Nghệ Tĩnh tuy không thành công nhưng đã chứng tỏ năng lực cách mạng của nhân dân Việt Nam, của một Đảng Cộng sản kiên cường mới thành lập chưa được một năm đã có ảnh hưởng trong nước và trên thế giới. Qua cao trào 1930 - 1931 và Xô-viết Nghệ Tĩnh, tháng 4-1931, Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản đã đánh giá cao sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương và ra quyết định công nhận Đảng ta là một phân bộ độc lập của Quốc tế Cộng sản.

 

b. Thời kỳ Mặt trận Dân chủ

 

Thời kỳ này, chủ nghĩa phát xít đã hình thành ở nhiều nước tư bản châu Âu và chế độ phát xít được thiết lập ở Đức, Ý, Nhật. Tháng 7-1935, Quốc tế Cộng sản họp Đại hội lần thứ bảy, phân tích bản chất chủ nghĩa phát xít, vạch rõ kẻ thù nguy hiểm nhất lúc này của nhân dân thế giới là chủ nghĩa phát xít, nhiệm vụ trước mắt là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và chiến tranh đế quốc, giành dân chủ và hoà bình. Đại hội chủ trương xây dựng Mặt trận thống nhất của giai cấp công nhân, trên cơ sở đó thiết lập mặt trận nhân dân rộng rãi đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít. Đây là sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược rất quan trọng của phong trào cộng sản.

 

Ở Đông Dương, tháng 7/1936, Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam họp ở Thượng Hải (Trung Quốc). Hội nghị phân tích tình hình quốc tế và trong nước, nêu rõ mục tiêu trước mắt là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh đế quốc, đòi quyền dân chủ, cải thiện dân sinh, bảo vệ hoà bình. Hội nghị quyết định tạm thời chưa nêu khẩu hiệu đánh đổ đế quốc Pháp và giai cấp địa chủ, giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày. Hội nghị quyết định thành lập mặt trận rộng rãi, lúc đầu gọi là Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương, sau đổi là Mặt trận Dân chủ.

 

Để thực hiện bước đầu Nghị quyết Hội nghị toàn quốc, ngay từ tháng 8/1936, nắm thời cơ Mặt trận Nhân dân Pháp giành thắng lợi trong tuyển cử, Quốc hội Pháp chuẩn bị cử một phái đoàn điều tra sang Đông Dương để thực hiện một số điều cải cách, Đảng đã chủ trương mở cuộc vận động Đại hội Đông Dương, tuyên truyền, động viên các tầng lớp nhân dân nêu nguyện vọng, lập thành bản dân nguyện gửi tới phái đoàn điều tra nhằm mục tiêu trước mắt là đòi nhà cầm quyền Pháp thực hiện những cải cách, thực hành tự do, dân chủ, cải thiện đời sống cho nhân dân. Trước sức mạnh của phong trào Mặt trận nhân dân, giới cầm quyền Pháp buộc phải thi hành một số cải cách tiến bộ ở thuộc địa. Việc làm có ý nghĩa chính trị lớn nhất của Chính phủ Pháp là ra sắc lệnh ân xá chính trị phạm ở Đông Dương. Bọn thống trị ở Đông Dương buộc phải thi hành một phần sắc lệnh này.

 

Sau Hội nghị Trung ương (tháng 3/1937), Đảng xuất bản tài liệu Chủ trương tổ chức mới của Đảng. Về công tác tuyên truyền cổ động, Trung ương chủ trương phát triển mạnh mẽ công tác báo chí, xuất bản, phát hành, huấn luyện, đào tạo cán bộ. Các biện pháp là: phát triển xuất bản sách báo công khai, chọn đảng viên có trình độ viết sách, viết bài trên báo công khai; mỗi chi bộ lập “bình dân thư xã” mua và đọc sách báo cách mạng; khuyến khích quần chúng mua và đọc sách báo. Các cấp đảng bộ tái bản những tài liệu tuyên truyền của Trung ương, lập ra Ban huấn luyện chăm lo đào tạo cán bộ và bồi dưỡng chính trị cho đảng viên và quần chúng.

 

Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương tháng 3/1937 đem lại nhiều kết quả tốt. Việc xuất bản và phát hành sách báo công khai đã phát triển mạnh mẽ. Ở Nam Kỳ, báo tiếng Việt có Phổ thông, Dân chúng là cơ quan của Trung ương Đảng, về danh nghĩa công khai là của lao động và dân chúng Đông Dương. Lao động, cơ quan của xứ uỷ Nam Kỳ, danh nghĩa công khai là cơ quan bênh vực quyền lợi cần lao. Báo tiếng Pháp có Avant grade (Tiên phong), Le peuple (Nhân dân). Người phụ trách các báo của Trung ương là đồng chí Hà Huy Tập. Ở Trung Kỳ, báo tiếng Việt có Dân là cơ quan của xứ uỷ Trung kỳ do đồng chí Phan Đăng Lưu phụ trách, Nhành lúa do đồng chí Hải Triều làm Thư ký Toà soạn cũng do xứ uỷ chỉ đạo. Ở Bắc Kỳ, báo tiếng Việt có Tin tức, Đời mới là cơ quan của xứ uỷ Bắc Kỳ, Thế giới là cơ quan của Đoàn Thanh niên Dân chủ. Báo tiếng Pháp có: Le travail (Lao động), Rassemblement (Tập hợp), En avant (Tiến lên), Notre voix (Tiếng nói của chúng ta) do xứ uỷ chỉ đạo. Các tờ báo trên do các đồng chí Trường Chinh và Hoàng Quốc Việt phụ trách.

 

Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền, ta đã giành thắng lợi trong các cuộc bầu cử Viện Dân biểu Bắc kỳ và Viện Dân biểu Trung kỳ (1937 - 1938).

 

Ngày 29/10/1938, Đảng ra bản “Tuyên ngôn về thời cuộc” đăng trên báo Dân chúng kêu gọi các đảng phái dân chủ của người Việt Nam, các đoàn thể, cá nhân và cả người nước ngoài đoàn kết trong Mặt trận dân chủ “để vì tự do, hoà bình và cơm áo mà tranh đấu phòng thủ Xứ sở”.

 

Trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ, công tác tuyên giáo đã góp phần quan trọng tạo ra một cao trào cách mạng sôi nổi, là cuộc tổng diễn tập thứ hai cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám về sau. Công tác tuyên giáo đã gắn chặt với mục tiêu, nhiệm vụ chính trị trong thời kỳ này, đấu tranh cho tự do dân chủ, cải thiện đời sống và hoà bình, chống phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh. Công tác tư tưởng đã gắn chặt với công tác tổ chức và lãnh đạo quần chúng trong các đợt đấu tranh, chống các khuynh hướng sai lầm: cô độc, hẹp hòi, bảo thủ, rụt rè, thoả hiệp vô nguyên tắc trong việc thực hiện chính sách mặt trận. Công tác tư tưởng cũng đã liên tục tố cáo tội ác và các thủ đoạn lừa bịp của địch và bè lũ tay sai, chống lại những luận điệu xuyên tạc, chia rẽ của bọn Tờ-rốt-kít. Trong thời kỳ này, Đảng triệt để lợi dụng khả năng hợp pháp để mở rộng công tác tuyên truyền cổ động, giáo dục, truyền bá quốc ngữ trong quần chúng, tổ chức các cuộc hội họp, mít tinh, vận động tranh cử; xuất bản và phát hành sách báo công khai ; tiến hành các cuộc thảo luận, tranh luận về duy vật - duy tâm, nghệ thuật vị dân sinh - nghệ thuật vị nghệ thuật... tạo điều kiện cho đường lối, chủ trương của Đảng đi vào quần chúng rộng rãi, góp phần thúc đẩy sự phát triển của văn hoá dân tộc, cổ vũ mạnh mẽ khí thế của phong trào cách mạng, tập hợp đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ tiến bộ tham gia vận động cách mạng.

 

c. Cao trào giải phóng dân tộc và Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám (1939 - 1945)

 

Chiến tranh Thế giới lần thứ hai bùng nổ ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình Đông Dương. Bọn thống trị Đông Dương thi hành chính sách phát xít, bắt bớ, truy lùng, đàn áp trắng trợn những người cách mạng, đình bản, tịch thu sách báo tiến bộ, giải tán các tổ chức quần chúng. Tháng 11/1939, Hội nghị lần thứ sáu của Trung ương Đảng họp đã chuyển hướng chỉ đạo chiến lược trong thời kỳ mới. Hội nghị nhấn mạnh, chiến tranh thế giới sẽ gây tai họa lớn cho nhân loại nhưng tiền đồ cách mạng sẽ rất sáng sủa “Một thế giới quang minh rực rỡ sẽ thay cho cái thế giới tối tăm mục nát này[5]. Hội nghị xác định mục tiêu chiến lược trước mắt của cách mạng Đông Dương là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc Đông Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương.

 

Về công tác tuyên truyền, cổ động, Hội nghị đề ra phương hướng, nội dung và các biện pháp trong thời kỳ mới. Phương hướng chung là phải nhằm vào mục đích đánh đổ đế quốc, giành độc lập dân tộc. “Phản đế, giải phóng dân tộc”. Tất nhiên, tất cả các lực lượng tuyên truyền phải xoay vào cái tinh thần phản đế và nhằm đến cái mục đích đánh đổ đế quốc, đòi giải phóng dân tộc”.[6]

 

Tháng 2/1941, đồng chí Nguyễn Ái Quốc về nước ở vùng Pắc Bó (Cao Bằng), mở các lớp huấn luyện ngắn ngày cho cán bộ, lược dịch cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô làm tài liệu học tập cho cán bộ cấp tỉnh. Tháng 5/1941, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương họp ở Pắc Bó do Nguyễn Ái Quốc chủ trì. Hội nghị đã phân tích tình hình thế giới và trong nước, dự báo chính xác: “Cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”[7]. Hội nghị khẳng định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là giải phóng dân tộc. Theo đề nghị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị quyết định đổi tên “Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương” thành “Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh”, gọi tắt là Việt Minh. Các đoàn thể lấy tên mới là các hội cứu quốc. Hội nghị nhận định nhiệm vụ trung tâm của Đảng và dân ta giai đoạn hiện tại là chuẩn bị khởi nghĩa.

 

Cuối năm 1941 và đầu năm 1942, nhiều đảng bộ trong cả nước đã tổ chức mít tinh, phân phát thư kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, tuyên ngôn của Mặt trận Việt Minh, viết biểu ngữ, treo cờ, giới thiệu Mặt trận Việt Minh. Bản chương trình của Việt Minh được soạn thành văn vần cho đồng báo dễ nhớ, dễ thuộc. Các địa phương xây dựng lực lượng Việt Minh, thành lập các hội công nhân cứu quốc, nông dân cứu quốc, thanh niên cứu quốc, phụ nữ cứu quốc, tự vệ cứu quốc và tổ chức các lớp huấn luyện cán bộ. Ở các nhà tù, các đồng chí lập ra Hội Lao tù cứu quốc. Đường lối, chủ trương đúng của Đảng đã được tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng và biến thành sức mạnh. Phong trào phát triển ngày càng mạnh mẽ, nhất là ở Cao Bằng và vùng Bắc Sơn - Vũ Nhai, hình thành hai khu căn cứ đầu tiên của cách mạng ở Việt Bắc.

 

Năm 1943, Đề cương văn hoá của Đảng ra đời. Đề cương chỉ rõ, văn hoá là một trong ba mặt trận cách mạng (chính trị, kinh tế và văn hoá); xác định ba nguyên tắc vận động của nền văn hoá Việt Nam: dân tộc hoá, đại chúng hoá và khoa học hoá. Đề cương văn hoá Việt Nam là văn kiện chính thức đầu tiên của Đảng về công tác văn hoá, văn nghệ, phân tích đúng đắn tình hình đời sống văn hoá dưới ách Pháp - Nhật, vạch ra đường lối văn hoá cách mạng và những nhiệm vụ trước mắt, tiến tới xây dựng nền văn hoá dân tộc, nhân dân.

 

Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ đạo đã đánh thắng hai trận đầu tiên ở Phai Khắt, Nà Ngần và đẩy mạnh hoạt động vũ trang tuyên truyền rất có hiệu quả ở Việt Bắc. Đồng bào nhiệt liệt tham gia Mặt trận Việt Minh và ủng hộ Đội Tuyên truyền giải phóng quân.

 

Đầu năm 1945, chiến tranh thế giới đi vào giai đoạn kết thúc. Phát xít Đức sắp bị thất bại ở mặt trận châu Âu. Phát xít Nhật cũng bị nguy khốn ở mặt trận Thái Bình Dương. Để loại trừ nguy cơ bị Pháp đánh sau lưng, Nhật làm đảo chính lật đổ Pháp ngày 9/3/1945. Ngay trong đêm đảo chính, Hội nghị Thường vụ Trung ương được triệu tập do đồng chí Trường Chinh chủ trì. Căn cứ vào Nghị quyết của Hội nghị, Ban Thường vụ Trung ương ra Chỉ thị: “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Hội nghị quyết định nhiều vấn đề quan trọng để gấp rút chuẩn bị tiến tới Tổng khởi nghĩa.

 

Ở khắp nơi trong cả nước, Mặt trận Việt Minh đã tổ chức các cuộc mít tinh, biểu tình ngay tại các thị trấn, thị xã, thành phố. Nhiều nơi đã tổ chức các đội tuyên truyền xung phong, lựa chọn trong các thanh niên nam nữ hăng hái, dũng cảm nhất. Các đội này được vũ trang, mang theo cờ, băng, tổ chức diễn thuyết ở các xí nghiệp, trường học, rạp hát, chợ, bến đò... lên án phát xít Nhật và tay sai, kêu gọi nhân dân đoàn kết cứu nước.

 

Đêm 13/8/1945, Uỷ ban Khởi nghĩa toàn quốc ra lệnh khởi nghĩa. Ngày 14/8, Tổng bộ Việt Minh ra hiệu triệu: “Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh! Dân tộc ta đã đến lúc vùng dậy cướp lại quyền độc lập của mình!”. Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào từ ngày 13 đến 15-8-1945 chủ trương kịp thời lãnh đạo toàn dân tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền, đề ra đường lối đối nội, đối ngoại trong tình hình mới. Hội nghị quyết định một số việc cần kíp để tăng cường công tác tuyên truyền cổ động: chấn chỉnh Bộ Tuyên truyền Trung ương, Ban biên tập báo chí, mỗi tỉnh thành lập cơ quan ấn loát và có vật liệu in, sử dụng nhiều hình thức mạnh mẽ, táo bạo, như dùng loa phóng thanh tuyên truyền lưu động, biểu tình thị uy có vũ trang.

 

Sau hội nghị toàn quốc của Đảng, Đại hội quốc dân họp vào ngày 16/8/1945. Đại hội tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng và 10 chính sách của Việt Minh, quyết định thành lập Uỷ ban Giải phóng dân tộc Việt Nam, quy định quốc kỳ, quốc ca. Sau hội nghị, Đồng chí Nguyễn Ái Quốc gửi thư kêu gọi quốc dân. Sau khi báo tin việc thành lập Uỷ ban Dân tộc giải phóng, đồng chí kêu gọi toàn dân đoàn kết chung quanh Uỷ ban, nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”[8].

 

Ngày 17/8/1945 ở Hà Nội, Thành uỷ Hà Nội đã lãnh đạo quần chúng biến cuộc mít tinh của chính quyền bù nhìn thành mít tinh và biểu tình tuần hành thị uy của ta, kêu gọi đồng bào tham gia khởi nghĩa. Ngày 19/8, cuộc khởi nghĩa đã giành thắng lợi ở Hà Nội, thúc đẩy mạnh mẽ các tỉnh và thành phố khác, tạo điều kiện thuận lợi cho tổng khởi nghĩa cả nước. Ngày 23/8, cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi ở Thừa Thiên - Huế, lật đổ chính quyền bù nhìn Trần Trọng Kim, buộc Bảo Đại phải thoái vị. Ngày 25/8 cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi ở Sài Gòn. Như vậy, Cách mạng Tháng Tám đã giành thắng lợi trong cả nước trong vòng nửa tháng. Thực tiễn cuộc tổng khởi nghĩa diễn ra rất phong phú. Nhìn tổng quát, đó là cuộc nổi dậy của toàn dân. Mọi hình thức tuyên truyền, cổ động gắn với cuộc nổi dậy đều được huy động đến mức cao nhất trong điều kiện lúc ấy. Hình thức phổ biến là quần chúng biểu tình tuần hành, có các lực lượng tự vệ làm nòng cốt, mang theo băng cờ, biểu ngữ, vũ khí có sẵn, xếp thành đội ngũ xông vào chiếm công sở, trại lính kết hợp với dụ hàng bọn chính quyền bù nhìn địa phương, buộc chúng nộp vũ khí, trao chính quyền cho cách mạng. Ta đã kịp thời kêu gọi quân Nhật không can thiệp vào công việc nội bộ của ta, còn ta bảo đảm an toàn cho họ để chờ ngày về nước.

 

Công tác tuyên giáo trong thời kỳ 1939 - 1945 đã gắn chặt và phục vụ thiết thực cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc rất oanh liệt và thắng lợi rất vẻ vang của nhân dân ta. Đội ngũ cán bộ tuyên giáo thực sự là những chiến sĩ xung kích, có mặt ở những nơi khó khăn, gian khổ, tuyên truyền, vận động nhân dân phát huy cao độ lòng yêu nước và truyền thống đoàn kết, anh hùng, bất khuất của dân tộc, nổi dậy tự giải phóng mình khỏi ách nô lệ của đế quốc và tay sai. Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối độc lập tự chủ và đầy sáng tạo của cách mạng Việt Nam. Đồng thời cũng là thành tựu to lớn của công tác tuyên giáo trong việc giáo dục và vận động cách mạng, biến chủ nghĩa Mác - Lênin, t­ư tưởng Hồ Chí Minh và đư­ờng lối, chính sách của Đảng thành phong trào cách mạng của quần chúng trong quá trình đấu tranh giành chính quyền, giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân, phong kiến.

 

2. Công tác tuyên giáo tham gia huy động sức người, sức của cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954)

 

a. Công tác tuyên giáo tham gia bảo vệ chính quyền cách mạng, xây dựng xã hội mới những năm 1945 - 1946

 

Sau Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, chính quyền cách mạng mới ra đời gặp muôn vàn khó khăn. Nạn đói khủng khiếp chưa chấm dứt lại xảy ra lụt lớn ở Bắc Bộ. Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời chưa được nước nào trên thế giới công nhận. Hơn 20 vạn quân của Tưởng Giới Thạch tràn vào, thực hiện âm mưu "diệt cộng, cầm Hồ", phá Việt Minh, lật đổ chính quyền nhân dân, lập chính phủ phản động làm tay sai cho chúng. Ở miền Nam, quân đội Anh, Ấn kéo vào, mở đường cho quân đội thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn rồi mở rộng chiến tranh ra toàn Nam Bộ, Nam Trung Bộ. Một đội quân Pháp từ Vân Nam trở về chiếm đóng tỉnh Lai Châu. Bọn phản động người Việt (tập hợp trong hai tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mạng đồng minh hội) theo gót quân đội Tưởng, được chúng giúp đỡ đánh chiếm các thị xã Lao Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Bắc Ninh, Móng Cái, tổ chức bạo loạn và hô hào chống lại chính quyền cách mạng...

 

Nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân ta lúc này, trong đó có ngành tuyên giáo, là đoàn kết toàn dân bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, chống thù trong, giặc ngoài, góp phần đưa cách mạng tiến lên.

 

Công tác tuyên giáo lúc này tập trung giáo dục ý chí kiên cường, bất khuất, quyết tâm bảo vệ thành quả cách mạng, giữ vững lời thề  "Quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập", tin tưởng vào sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính quyền cách mạng và Mặt trận Việt  Minh, sẵn sàng làm mọi việc để bảo vệ độc lập, tự do; cổ vũ nhân dân thực hiện ba nhiệm vụ lớn: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm. Ngay sau khởi nghĩa, Bộ Tuyên truyền được thành lập do đồng chí Trần Huy Liệu làm Bộ trưởng, tiếp quản các cơ sở tuyên truyền, báo chí của chế độ cũ. Đài phát sóng Bạch Mai, Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam được thành lập và hoạt động từ ngày 7-9-1945. Việt Nam Thông tấn xã cũng được thành lập để cung cấp tin cho các cơ quan lãnh đạo và phục vụ công tác tuyên truyền. Báo Cờ giải phóng của Đảng, Cứu Quốc của Mặt trận Việt minh, Lao động của Hội Công nhân cứu quốc, Tiếng gọi phụ nữ của Hội Phụ nữ cứu quốc, Hồn nước của Đoàn Thanh niên cứu quốc, Độc lập của Đảng Dân chủ đã được phát hành công khai, rộng rãi. Khắp nơi tổ chức các cuộc mít tinh, các buổi nói chuyện về việc thành lập Chính phủ cách mạng, chính quyền địa phương và những nhiệm vụ công tác trước mắt. Công tác tuyên truyền đã liên tục tố cáo âm mưu và tội ác của thực dân Pháp ở miền Nam, khơi sâu lòng căm thù và ý chí quyết tâm chống xâm lược, ủng hộ đồng bào miền Nam kháng chiến. Các tỉnh đều có những cuộc mít tinh, biểu tình, biểu dương lực lượng chống thực dân Pháp xâm lược. Các tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ có nhiều hình thức động viên phong phú để quyên góp thuốc men, quần áo, vũ khí chi viện cho cuộc kháng chiến ở miền Nam. Hàng vạn thanh niên nô nức tham gia tòng quân, xung phong "Nam tiến". Các cuộc tiễn đưa các đoàn quân "Nam tiến" diễn ra hào hùng trong tiếng ca cách mạng, gây phấn chấn trong lòng mỗi người.

 

Ở Nam Bộ, công tác tuyên truyền đã được tiến hành sâu rộng nhằm nâng cao ý chí quyết tâm chiến đấu bảo vệ thành quả cách mạng. Ở Sài Gòn, Chợ Lớn, chiều ngày 23/9/1945, ta vận động đồng bào tổng đình công, không hợp tác với giặc, lập các công sự, tổ chức cuộc chiến đấu trong thành phố bằng các vũ khí sẵn có.

 

Ngày 25/11/1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến, kiến quốc, xác định tính chất cách mạng nước ta và hai nhiệm vụ chiến lược là kháng chiến chống thực dân Pháp và xây dựng chế độ mới. Công tác tuyên truyền tập trung vào nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân. Khẩu hiệu tuyên truyền là: “Dân tộc trên hết”, “Tổ quốc trên hết”. Các cán bộ Đảng, đoàn thể, Mặt trận... được phái đi khắp mọi nơi tuyên truyền, vận động nhân dân tăng gia sản xuất, chống đói, xoá nạn mù chữ, phát triển và củng cố các đoàn thể cứu quốc…, dấy lên phong trào làm theo Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa!”; “Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mối tháng nhịn 3 bữa, mỗi bữa một bơ để cứu dân nghèo”... Cùng với việc đẩy mạnh sản xuất cứu đói, việc chống nạn mù chữ cũng được tuyên truyền rộng rãi, thành một cao trào ở các địa phương. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi những người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ... Những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết. Vợ chưa biết thì chồng bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ không biết thì con bảo... Khắp nơi có khẩu hiệu “Tiền tuyến diệt xâm lăng, hậu phương trừ giặc dốt”, “Thêm một người đi học là thêm một viên gạch xây nền độc lập của nước nhà”... Nhiều ca dao, hò vè được sáng tác để cổ vũ phong trào, gây ấn tượng sâu sắc, như: “Lấy chồng biết chữ là tiên, lấy chồng mù chữ là duyên lỡ làng”... Kết quả  sau một năm, đã có 2 triệu người thoát nạn mù chữ. Ngày 6-9-1945, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ban hành sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ để phát động phong trào học tập, nhanh chóng xóa nạn mù chữ trong nhân dân. Chỉ sau một năm (từ 19 tháng 8 năm 1945 đến 19 tháng 8 năm 1946) ta đã mở được 15.000 lớp học, đào tạo 95.000 giáo viên.

 

Cuộc vận động xây dựng đời sống mới, giáo dục tinh thần yêu nước, đạo đức “cần, kiệm, liêm, chính”, chống các hủ tục lạc hậu cũng được tuyên truyền sâu rộng. Nạn trộm cắp, cờ bạc, các hủ tục trong ma chay, cưới xin được xoá bỏ ở nhiều nơi, công tác thông tin ở cơ sở, phong trào văn nghệ cách mạng có tính quần chúng, nhất là ca hát phát triển rộng rãi.

 

Hưởng ứng lời hô hào toàn dân tập thể dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh (tháng 3-1946)[9], phong trào thể dục thể thao dưới khẩu hiệu “Khỏe vì nước” đã được phát triển sâu rộng.

 

Để củng cố chính quyền cách mạng, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, Chính phủ quyết định tổ chức Tổng tuyển cử vào ngày 06-0l-1946 để bầu Quốc hội, xây dựng Hiến pháp và lập Chính phủ chính thức. Công tác tuyên truyền vận động bầu cử thực sự là một cuộc đấu tranh gay gắt chống lại sự phá hoại của quân đội Tưởng và bọn tay sai Việt Quốc, Việt Cách ở miền Bắc, thực dân Pháp ở miền Nam. Khẩu hiệu phổ biến mọi nơi là: Tất cả cử tri tới thùng phiếu; “Mỗi lá phiếu là một viên đạn diệt thù”. Ngày 5-1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào cả nước “... ngày mai, quốc dân ta sẽ tỏ cho thế giới biết rằng dân Việt Nam ta đã: kiên quyết đoàn kết chặt chẽ; kiên quyết chống bọn thực dân, kiên quyết tranh quyền độc lập...”. Cuộc tổng tuyển cử đã đạt kết quả tốt, thu hút đại đa số cử tri đi bỏ phiếu bầu cho các ứng cử viên của Mặt trận Việt Minh, kể cả ở miền Nam dưới bom đạn của thực dân Pháp. Đây là dịp giáo dục cho nhân dân ta về lòng yêu nước, ý thức làm chủ của công dân một nước độc lập, nâng cao uy tín của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà trên thế giới.

 

b. Động viên toàn dân kháng chiến, thi đua yêu nước, giết gặc, lập công

 

Ngày 19/12/1946 Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương phát động cuộc kháng chiến trong cả nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Ngày 22/12/1946, Trung ương Đảng ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến. Chỉ thị vạch rõ mục đích của kháng chiến là giành độc lập và thống nhất Tổ quốc. Phương châm cơ bản của cuộc kháng chiến là toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh sinh.

 

Công tác tuyên giáo tập trung tuyên truyền những khẩu hiệu: Toàn dân đoàn kết, kháng chiến lâu dài; Liên hiệp dân Pháp, đánh thực dân Pháp! Bảo toàn lãnh thổ, giữ vững chủ quyền; Đánh đổ chính quyền bù nhìn; Củng cố cộng hoà dân chủ! Việt Nam nhất định độc lập; Trung Nam Bắc nhất định thống nhất!

 

Tuyên truyền đường lối kháng chiến của Đảng được đồng chí Trường Chinh giải thích và phát triển trong các bài đăng trên báo Sự thật từ tháng 3 đến tháng 8-1947 và in thành sách tháng 9/1947 lấy tên là “Kháng chiến nhất định thắng lợi”. Cuốn sách đã chỉ rõ mục đích cuộc kháng chiến, phân tích một cách khoa học những chỗ mạnh, chỗ yếu của ta so với những chỗ mạnh, chỗ yếu của địch, phân tích cuộc kháng chiến lâu dài phải qua ba giai đoạn; giải thích rõ đường lối kháng chiến về các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa... Tác phẩm chỉ rõ nhiệm vụ của mặt trận văn hóa kháng chiến là bằng mọi hình thức động viên toàn dân tham gia chiến đấu, “làm cho nhân dân hiểu vì sao phải đánh, đánh để làm gì, làm thế nào để thắng, đánh nhất định khổ, nhưng nhất định thắng lợi”.

 

Tuyên truyền lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Trung ương Đảng và tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” của đồng chí Trường Chinh là sự hướng dẫn, động viên và tổ chức nhân dân ta đấu tranh trong cuộc kháng chiến chống thực dân xâm lược Pháp. Những quan điểm về chiến tranh cách mạng trong các văn kiện ấy đã góp phần xây dựng lý luận về chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.

 

Trong những năm kháng chiến chống Pháp, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng và Chính phủ, đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền, báo chí, xuất bản, văn hoá, văn nghệ... đã có mặt trên các chiến trường nóng bỏng, phản ánh, động viên chủ nghĩa anh hùng trong chiến đấu, sản xuất của chiến sĩ, đồng bào cả nước. Thời gian này, công tác khoa giáo tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, y tế, vận động trí thức. Chỉ thị về kháng chiến kiến quốc đã xác định nhiệm vụ tổ chức bình dân học vụ, bài trừ nạn mù chữ, phát triển nền giáo dục quốc dân, chống văn hóa nô dịch thực dân, xây dựng nền văn hóa mới với ba nguyên tắc: khoa học hóa, đại chúng hóa, dân tộc hóa. Công tác tuyên huấn đã động viên phong trào thi đua yêu nước, diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm. Ngày 15/01/1948, sau chiến thắng Việt Bắc, Trung ương Đảng họp hội nghị mở rộng để nhận định tình hình và bổ sung các biện pháp đẩy mạnh cuộc kháng chiến. Theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 27/3/1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị phát động phong trào thi đua ái quốc trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân với mục đích: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm.

 

Công tác tuyên truyền cổ động trong thời gian này tập trung nêu cao ý nghĩa chiến thắng Việt Bắc, phổ biến Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chống tư tưởng chủ quan, khinh địch, vạch trần âm mưu lập chính quyền bù nhìn Bảo Đại của thực dân Pháp, cổ vũ cho phong trào thi đua yêu nước trên mọi lĩnh vực kháng chiến kiến quốc.

 

Tuyên truyền rộng rãi nội dung Đại hội lần thứ II của Đảng được tiến hành trong tháng 2/195l. Báo cáo chính trị trình Đại hội đã khái quát cuộc vận động cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, tổng kết quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng ta trong 21 năm, nêu rõ nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Việt Nam lúc này là tiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành thống nhất, độc lập hoàn toàn, bảo vệ hòa bình thế giới. Để hoàn thành sự nghiệp lãnh đạo cách mạng và đưa kháng chiến đến thắng lợi, Đảng phải ra hoạt động công khai và tổ chức lại cho thích hợp với tình hình mỗi nước ở Đông Dương.

 

Ngày 13/3/1954, quân ta bắt đầu nổ súng tấn công tập đoàn cứ điểm Điện Biên phủ. Cuộc chiến đấu quyết liệt đã diễn ra trong thời gian dài với nhiều khó khăn, gian khổ. Đảng đã chỉ đạo công tác tuyên giáo tổ chức đợt sinh hoạt chính trị trong cán bộ và chiến sĩ ngoài mặt trận, giáo dục chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần tích cực tiến công, ý chí quyết thắng, quyết tâm chấp hành mệnh lệnh chiến đấu, khắc phục tư tưởng tiêu cực, ngại gian khổ hy sinh, uốn nắn tư tưởng chủ quan, khinh địch khi có thắng lợi. Các gương chiến đấu dũng cảm, hy sinh oanh liệt được biểu dương trong toàn quân, toàn dân. Ngày 7/5/1954 ta đã giành toàn thắng trên chiến trường Điện Biên Phủ.

 

Chiến thắng Điện Biên Phủ là mốc son chói lọi trong lịch sử chống quân xâm lược của dân tộc ta. Công tác tuyên giáo đã góp phần quan trọng làm nên chiến công đó. Đây là một Đống Đa, Chi Lăng, Bạch Đằng của thế kỷ XX dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng. Từ đây thế giới biết đến và vô cùng khâm phục Việt Nam - Điện Biên Phủ - Hồ Chí Minh !

 

Ngày 20/7/1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp ở Đông Dương, thừa nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng. Nhân dân ta bước sang một thời kỳ lịch sử mới, thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiếp tục đấu tranh hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam, tiến tới thống nhất nước nhà.

 

3. Công tác tuyên giáo trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giành thắng lợi (1954 - 1975).

 

Trong suốt 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giành thắng lợi; Đảng ta đã lãnh đạo công tác tuyên giáo thực hiện cuộc vận động chính trị to lớn, nhằm quán triệt hai nhiệm vụ chiến lược là cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Với ý chí “không có gì quý hơn độc lập tự do”, thực hiện cuộc chiến tranh nhân dân, phát huy tinh thần yêu nước của toàn dân tộc, tranh thủ tối đa sự ủng hộ của nhân dân thế giới, tạo ra sức mạnh tổng hợp để đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, công tác tuyên giáo đã thành công trong việc bồi dưỡng ý chí quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ.

 

Trong từng giai đoạn của cuộc cách mạng, công tác tuyên giáo đã góp phần quan trọng vào việc xác định mục tiêu chính trị, định hướng cho hành động gắn liền với những sự kiện lớn như sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954; thời kỳ  lập ấp chiến lược của địch và đàn áp những người cộng sản ở miền Nam; sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy vào Tết Mậu Thân 1968; khi Hiệp định Pari được ký kết năm 1973… Công tác tuyên giáo đã tập trung để tạo nên sự nhất trí về chính trị, tinh thần của toàn xã hội. Phát hiện và uốn nắn những lệch lạc trong nhân dân, chống sự phá hoại về mặt tư tưởng của các lực lượng thù địch, chống chiến tranh tâm lý, chống văn hóa nô dịch, phê phán lối sống đồi trụy của Mỹ ngụy. Kết hợp giáo dục chính trị, động viên kịp thời, phát động tư tưởng đi liền với tổ chức; tập hợp rộng rãi tất cả mọi người dân yêu nước, mọi lực lượng tiến bộ trên thế giới và ngay ở nước Mỹ; tạo sự đồng tình ủng hộ cả về vật chất và tinh thần của các nước trong phe xã hội chủ nghĩa anh em để bảo vệ thành công  chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

 

Công tác tuyên giáo đã góp phần động viên nhân dân miền Bắc ra sức khôi phục và phát triển kinh tế, xây dựng hậu phương lớn xã hội chủ nghĩa. Đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người lao động làm chủ đất nước, có giác ngộ xã hội chủ nghĩa, có văn hóa và kỹ thuật, có sức khỏe; những người phát triển toàn diện để xây dựng xã hội mới. Phát triển đội ngũ cán bộ khoa học tự nhiên, kỹ thuật và khoa học xã hội, xây dựng các cơ sở nghiên cứu khoa học. Tiến hành công tác phổ biến kiến thức khoa học và kỹ thuật trong đông đảo quần chúng, biến khoa học và kỹ thuật thành của cải của nhân dân lao động, phát động phong trào quần chúng mạnh mẽ tiến quân vào khoa học và kỹ thuật. Cổ vũ những điển hình xuất sắc trên một số lĩnh vực chủ yếu được các ngành, các đoàn thể tổng kết, trở thành ngọn cờ tiêu biểu của phong trào thi đua như Gió Đại Phong (Hợp tác xã Đại Phong Quảng Bình), Sóng Duyên Hải, (Nhà máy cơ khí Duyên Hải), Tiếng trống Bắc Lý (Trường phổ thông cấp II Bắc Lý tỉnh Hà Nam); “Cờ Ba nhất” trong quân đội… Nhiều lĩnh vực, công tác tuyên giáo ở miền Bắc đã phát triển mạnh mẽ, có quy mô lớn, đặc biệt là giáo dục và y tế trở thành hai bông hoa tiêu biểu của chế độ mới, là niềm tự hào của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

 

Khi giặc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, công tác tuyên giáo đã đi sâu khơi dậy ý chí thi đua yêu nước: “Tay cày tay súng”, “Tay búa tay súng”, “Tiếng hát át tiếng bom”, “Nhằm thẳng quân thù mà bắn”… Những ngày cuối tháng 12 năm 1972, đế quốc Mỹ đã dùng máy bay chiến lược B.52 ném bom huỷ diệt Hà Nội, Hải Phòng và một số tỉnh miền Bắc, chúng ta đã lập nên kỳ tích “Điện Biên Phủ trên không”. Chiến công đó đã bảo vệ vững chắc Thủ đô Hà Nội và miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Thế giới khâm phục và ca ngợi Việt Nam, coi Hà Nội là Thủ đô của lương tri và phẩm giá con người.

 

Miền Bắc “Mỗi người làm việc bằng hai”,“vì miền Nam ruột thịt”, “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”. Mọi người Việt Nam trong giai đoạn này ai cũng xúc động khi nhớ tới câu nói của Bác Hồ “Miền Nam luôn trong trái tim tôi”. Là con Lạc, cháu Hồng, ai cũng muốn làm nhiều hơn nữa để Bác Hồ chóng được gặp đồng bào miền Nam. Cả miền Bắc đồng tâm hiệp lực, với nghĩa tình “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” chi viện đắc lực sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam... Đéng viªn líp líp thanh niªn h¨ng h¸i lên đường đánh giặc với tinh thần “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Đồng bào các tỉnh miền Trung giàu lòng yêu nước và truyền thống cách mạng, tất cả một lòng “Xe chưa qua, nhà không tiếc”, “Đường chưa thông, không tiếc máu xương”. Đã có rất nhiều người trong ngành tuyên giáo ra mặt trận. Đó là các phóng viên, bác sĩ, nhà văn, nhà báo, nhà giáo, nhà khoa học... đi chiến trường vừa là một chiến sĩ cầm súng kiên cường, vừa là một người làm công tác tuyên giáo dũng cảm. Nhiều anh, chị đã vĩnh viễn nằm lại chiến trường. Đất nước ta, dân tộc ta sẽ muôn đời ghi nhớ sự hy sinh của các anh, các chị. Các anh, các chị “Chỉ để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ” [10], cho con cháu chúng ta mãi mãi tự hào.

 

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ ba (khoá III) ngày 23-1-1961, tháng 10 năm 1961, Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam được thành lập tại Mã Đà thuộc vùng căn cứ chiến khu Đ. Công tác tuyên giáo ở miền Nam đã cổ vũ quần chúng đẩy mạnh đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang ở khắp mọi nơi, trên cả ba vùng: vùng núi, đồng bằng và đô thị. Khơi dậy lòng căm thù giặc, bồi dưỡng lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần dũng cảm, đức hy sinh, tạo nên phong trào thi đua giết giặc, lập công. Từ cụ già đến em nhỏ hưởng ứng đợt phát động tìm Mỹ mà diệt”, phấn đấu trở thành dũng sĩ diệt Mỹ”, dũng sĩ diệt cơ giới”, dũng sĩ diệt máy bay”... Thanh niên miền Nam sôi nổi hưởng ứng phong trào Năm xung phong”, tham gia các lực lượng vũ trang giết giặc, xuống đường biểu tình chống chiến tranh, đòi Mỹ rút quân về nước. Vai trò xung kích của phụ nữ, “đội quân tóc dài” nổi bật trong các cuộc đấu tranh trực diện, giằng co quyết liệt với địch, giành nhiều thắng lợi. Khi đánh giặc, chị em phụ nữ luôn xứng danh là con cháu bà Trưng, bà Triệu “còn cái lai quần cũng đánh”. Công tác tuyên truyền, phổ biến kinh nghiệm giành và giữ quyền làm chủ ở nông thôn, kinh nghiệm xây dựng làng, xã chiến đấu, thực hiện khẩu hiệu: “Dân bám đất; cán bộ, đảng viên bám dân; du kích, bộ đội bám giặc”. Đồng bào miền Nam gan vàng, dạ ngọc, dù phải đổ máu xương cũng quyết giữ bằng được từng tấc đất thiêng của Tổ quốc. Tinh thần bám trụ Một tấc không đi, một ly không dời” để giữ nhà, giữ ấp, giữ làng, mãi mãi là bản hùng ca của miền Nam đất thép thành đồng. Cùng với sự chi viện của miền Bắc, nhân dân miền Nam đã vùng lên đồng khởi; đánh bại các chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, “Chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh”; tổng tiến công Mậu Thân 1968 và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

 

Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội là kết quả của đường lối lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; là kết quả của sức mạnh trí tuệ Việt Nam, kết quả của sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Công tác tuyên giáo đã góp phần xứng đáng làm nên sức mạnh diệu kỳ Việt Nam, đó là một trong những chiến công vĩ đại nhất của nhân loại trong thế kỷ XX.

 

4. Công tác tuyên giáo từ sau khi đất nước thống nhất tới nay (1975 - 2010)

 

- Thời kỳ 1975 - 1985:

 

Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước đã thống nhất, công tác tuyên giáo tập trung tuyên truyền, giáo dục nhằm phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, truyền thống yêu nước trong chiến tranh thành sức mạnh mới trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. ĐÊt nước vừa trải qua 30 năm chiến tranh, phải đối phó với các cuộc chiến tranh biên giới, bị Mỹ và các thế lực đế quốc bao vây cấm vận, kinh tế - xã hội nước ta lâm vào khủng hoảng kéo dài, đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Trong hoàn cảnh đó, công tác tuyên giáo đã tập trung động viên các tầng lớp nhân dân nêu cao ý chí khắc phục khó khăn, quyết tâm vượt qua thử thách, nhanh chóng thực hiện thống nhất đất nước từ pháp lý đến xây dựng hệ thống chính trị thống nhất trong cả nước; cổ vũ khí thế phấn đấu nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh, chiến thắng oanh liệt trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới quốc gia, từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu quan trọng của đất nước, tạo điều kiện cho các bước phát triển tiếp theo. Đặc biệt là qua thực tiễn, đã từng bước chuẩn bị lý luận cho công cuộc đổi mới đất nước.

 

- Thời kỳ 1986 - 2010:

 

Tại Đại hội lần thứ VI, Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước. Công tác tuyên giáo của Đảng đã góp phần hình thành và từng bước hoàn thiện hệ thống lý luận vừa hợp quy luật, vừa hợp lòng người, đưa đường lối đổi mới nhanh chóng đi vào cuộc sống, mở rộng dân chủ, khơi dậy sự sáng tạo của mọi ngành, mọi địa phương, các tầng lớp nhân dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp của dân tộc, vượt qua nhiều thử thách để có những thành tựu quan trọng về kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại.

 

Thành quả của công cuộc đổi mới gắn liền với đổi mới tư duy lý luận của Đảng. Công tác tổng kết thực tiễn đã góp phần phát triển đường lối, xây dựng luận cứ khoa học cho những quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước, hình thành hệ thống các quan điểm đổi mới của Đảng trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội, làm rõ hơn quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng. Đề ra Cương lĩnh và Chiến lược xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

 

Ngành Tuyên giáo đã tham mưu cho Đảng nhiều luận điểm mới về văn hoá, giáo dục, khoa học, chăm sóc sức khoẻ nhân dân... trong đường lối đổi mới. Lý luận xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó nhấn mạnh văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, là một trong những yếu tố quyết định cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước. Phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo những con người có kiến thức văn hoá, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp, lao động tự chủ, sáng tạo và có kỷ luật, giàu lòng nhân ái, yêu nước, sống lành mạnh, đáp ứng yêu cầu phát triển trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cùng với giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế - xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Phát triển lý luận về con người, xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong quá trình phát triển. Con người là chủ thể sáng tạo ra mọi của cải vật chất và sản phẩm tinh thần, là động lực quan trọng nhất của quá trình phát triển, con người Việt Nam là tài sản quý giá nhất của đất nước. Lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân ở nước ta tiếp tục đạt được nhiều kết quả, tuổi thọ trung bình của người Việt Nam đạt mức khá cao (năm 200974,3 tuổi), xếp thứ 54/182 nước. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam trong hơn 20 năm qua không ngừng tăng lên, vượt lên nhiều nước có cùng trình độ phát triển kinh tế như Việt Nam.

 

Bước sang thế kỷ XXI, công tác tuyên giáo đã dồn sức tuyên truyền, giáo dục cán bộ, nhân dân về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về hội nhập quốc tế, mở rộng quan hệ đối ngoại lên tầm cao mới… Công tác tuyên giáo ngày càng bám sát thực tiễn, dự báo, phát hiện, đề xuất và tham gia xử lý những vấn đề bức xúc. Tăng cường phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp để định hướng và giải quyết những vấn đề tư tưởng liên quan đến phát triển, bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm an sinh xã hội... Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) từ tháng giêng năm 2007 và Uỷ viên không thường trực  Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc (năm 2008 - 2009), đã khẳng định Việt Nam đã hội nhập ngày càng sâu vào các quá trình toàn cầu, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Sau gần 25 năm đổi mới, đất nước ta đã thu được những “thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử” như Nghị quyết Đại hội X đã khẳng định. Đó là công lao của toàn Đảng và nhân dân ta, trong đó công tác tuyên giáo giữ vai trò quan trọng, góp phần quyết định sự phát triển mạnh mẽ của công cuộc đổi mới.

 

PHẦN III

 

Thành tựu và bài học kinh nghiệm

 

I. Thành tựu

 

Tám mươi năm qua, ngành tuyên giáo đã có rất nhiều đóng góp cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc trong việc giành và giữ chính quyền, đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa[11], trong đó cần nhấn mạnh một số thành tựu tiêu biểu của ngành tuyên giáo, chủ yếu diễn ra trong sự nghiệp đổi mới của Đảng.

 

1. Cung cấp những luận cứ khoa học, góp phần hình thành hệ thống các luận điểm mới trong đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước

Ban Tuyên giáo Trung ương đã tham mưu, hình thành những luận điểm mới trong các lĩnh vực tuyên giáo:

 

Phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo những con người có kiến thức văn hoá, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp, lao động tự chủ, sáng tạo và có kỷ luật, giàu lòng nhân ái, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Cùng với giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế xã hội, là điều kiên cần thiết giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải bằng và dựa vào khoa học và công nghệ. Khoa học và công nghệ là nội dung then chốt trong mọi hoạt động của tất cả các ngành, các cấp, là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và củng cố quốc phòng - an ninh. Bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại; là nhân tố bảo đảm sức khoẻ và chất lượng cuộc sống của nhân dân; góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - tế xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Văn hoá cùng với nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước. Văn học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hóa; là nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người; là một trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam. Quan tâm tài năng văn học, nghệ thuật là vốn quí của dân tộc. Xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong quá trình phát triển. Giải phóng tiềm năng con người, phát huy nội lực con người và sử dụng một cách có hiệu quả mọi nguồn lực con người. Con người là lực lượng sản xuất quan trọng nhất trong quá trình phát triển. Chính vì vậy mà con người Việt Nam là tài sản quý giá nhất của quốc gia. Trí thức Việt Nam là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững...

 

Đồng thời Ban Tuyên giáo Trung ương cũng tích cực góp phần vào việc  cung cấp những luận cứ khoa học để phát triển lý luận đổi mới chung của Đảng. Tiếp tục khẳng định, vận dụng, bổ sung và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay; khẳng định xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, coi đây là mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; con đường và bước đi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; lý luận về Đảng và xây dựng Đảng trong điều kiện mới; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc mà nền tảng là liên minh công nhân - nông dân - trí thức; nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân với lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; nền ngoại giao độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá với tinh thần Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển, không ngừng mở rộng các quan hệ đối ngoại, nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế v.v… Những luận cứ khoa học đó, đã góp phần quan trọng vào việc lý giải ngày càng sáng tỏ hơn các vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

 

2. Giáo dục, tuyên truyền có hiệu quả chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước

 

Bộ Chính trị, Ban Bí thư uỷ quyền cho Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp chỉ đạo nội dung giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hệ thống giáo dục quốc dân, hệ thống trường chính trị - hành chính, hệ thống trường của các ngành, đoàn thể và các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện. Ban Tuyên giáo Trung ương đã chỉ đạo việc biên soạn, thẩm định giáo trình, sách giáo khoa về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh và nội dung giáo dục lý luận chính trị cho các hệ thống trường nói trên. Nội dung, phương pháp giảng dạy và học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chương trình giáo dục lý luận chính trị cho các ngành, các cấp đã không ngừng được đổi mới. Việc đào tạo, giáo dục lý luận theo các trình độ lý luận khác nhau cho từng loại cán bộ được thực hiện theo yêu cầu chung của Đảng; thực hiện việc giáo dục lý luận chính trị phổ cập cho toàn thể cán bộ, đảng viên; đưa nội dung về lý luận chính trị của Đảng vào các chương trình của hệ thống giáo dục quốc dân, trong các loại trư­ờng lớp cho các đối tượng khác nhau; bồi du­ỡng lý luận chính trị thường xuyên cho cán bộ, đảng viên, nhân dân, nhất là các vấn đề mới và theo các chư­ơng trình chuyên đề; tổ chức tuyên truyền, phổ biến lý luận chính trị trên hệ thống thông tin đại chúng, qua hoạt động của đội ngũ báo cáo viên... Điều đó đã góp phần to lớn làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội.

 

Tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong mọi giai đoạn cách mạng, đặc biệt là đường lối đổi mới là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của Ngành Tuyên giáo. Trong quá trình tuyên truyền, luôn kiên định những vấn đề quan điểm có tính nguyên tắc, đồng thời nâng cao một bước sự thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội, củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bằng các hình thức và phương pháp thích hợp, công tác tuyên truyền, giáo dục biến quan điểm, lý luận thành hành động cách mạng, cải biến xã hội; làm rõ, phân biệt giữa cái đúng và cái sai, cái tiêu cực và cái tích cực, giữa tư tưởng tiến bộ và tư tưởng lạc hậu; đấu tranh, phê phán mọi tiêu cực trong đời sống xã hội cũng như sự nhấn mạnh một chiều của các khuynh hướng tư tưởng đối lập; đấu tranh phê phán tư tưởng nóng vội, mọi biểu hiện của tư tưởng bảo thủ, trì trệ; đồng thời, đề phòng sự xuất hiện của chủ nghĩa giáo điều, rập khuôn theo kinh nghiệm nước ngoài trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế.

 

Thông qua tuyên truyền các sự kiện chính trị, xã hội quan trọng, các ngày kỷ niệm lớn của đất nước, công tác tuyên giáo đã góp phần giáo dục lý tưởng cách mạng, tăng thêm niềm tự hào về lịch sử hào hùng của dân tộc, nêu cao ý thức tự lực, tự cường, tự tôn dân tộc, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong kháng chiến vào công cuộc đổi mới đất nước cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ. Điều này đã được khẳng định qua các lần đại hội Đảng, bầu cử đại biểu Quốc hội, kỷ niệm các ngày thành lập Đảng, thành lập nước, ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước qua các thời kỳ như Trần Phú, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Trường Chinh, Lê Duẩn, Tôn Đức Thắng v.v..

 

Tuyên truyền, kết hợp với tổ chức các phong trào xã hội, các cuộc vận động tạo ra sự hào hứng, phấn khởi, thúc đẩy phong trào cách mạng của quần chúng, biến quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước thành hành động thực tiễn của nhân dân. Những năm gần đây, Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” được phát động và thực hiện rộng khắp. Việc tuyên truyền các sự kiện chính trị, xã hội quan trọng và kỷ niệm các ngày lễ lớn đã góp phần tạo sự phấn chấn trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân; trên cơ sở đó tăng cường củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong nhận thức và hành động – cội nguồn làm nên sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội để tận dụng mọi thời cơ, vượt lên thách thức, biến khó khăn thành thuận lợi.

 

Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, cổ vũ những nhân tố mới, điển hình tiên tiến trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội có tác dụng giáo dục, thuyết phục cao đối với quần chúng nhân dân, đặc biệt trong điều kiện hiện nay, khi mà Việt Nam đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế.  Chính vì thế, thời gian qua, trong nước đã xuất hiện nhiều phong trào thi đua sâu rộng, góp sức thổi bùng khát vọng vươn lên làm giàu chính đáng của các tầng lớp nhân dân, từ đó giúp đất nước ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, đạt được nhiều thành tựu về kinh tế - xã hội; thực hiện xóa đói giảm nghèo có hiệu quả, đưa nước ta ra khỏi nhóm nước kém phát triển.

 

Ngành Tuyên giáo không ngừng phấn đấu và đã đạt nhiều kết quả trong việc giáo dục, tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Trong sự nghiệp đổi mới chúng ta không những đã tiếp tục bảo vệ, khẳng định mà còn vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Công tác tuyên giáo đã củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự đồng thuận xã hội, làm cho mọi người dân đều thấu hiểu đường lối đổi mới của Đảng, coi đó là một xu thế tất yếu của thành công và không thể đảo ngược.

 

3. Chú trọng nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước

 

Nghị quyết Trung ương bốn (khóa VII) của Đảng (1-1993) “Về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo”, trong quan điểm thứ hai đã khẳng định: Phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài...”. Ban Tuyên giáo Trung ương đã tham mưu xây dựng Nghị quyết và tích cực phối hợp với các cơ quan chức năng của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là Bộ Giáo dục và Đào tạo để đưa quan điểm chỉ đạo đó vào cuộc sống. Nếu như năm 1945, nước ta còn 95% người dân mù chữ, thì đến nay đã có 96% người dân biết chữ. Số học sinh phổ thông các cấp, trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề ; số sinh viên đại học và cao đẳng không ngừng tăng lên[12]. Năm học 2007 - 2008, cả nước có 21.099.689 học sinh và sinh viên (không kể các quy mô dạy nghề ngắn hạn dưới 1 năm). So sánh quy mô giáo dục trong hơn 10 năm qua, hầu hết các cấp ngành học đều có sự tăng quy mô. Trong đó, học sinh mầm non và mẫu giáo tăng 1,26 lần, tiểu học giảm 1,52 lần, trung học cơ sở tăng 1,2 lần, trung học phổ thông tăng 2,62 lần, dạy nghề tăng 5,66 lần (chỉ tính theo quy mô dạy nghề dài hạn, không kể đến quy mô dạy nghề ngắn hạn dưới 1 năm[13]), trung cấp chuyên nghiệp tăng 3.36 lần, giáo dục cao đẳng và đại học tăng 2,7 lần, đưa số sinh viên đại học, cao đẳng trên 1 vạn dân là 188. Đào tạo nghề tăng nhanh, giai đoạn 2001 - 2007 có gần 7 triệu người đã được đào tạo nghề (tăng bình quân 6,5%-năm), trong đó dạy nghề dài hạn đạt 1,14 triệu người. Lực lượng lao động đã được đào tạo theo các loại hình và trình độ đào tạo khác nhau chiếm 31,5% (năm 2007), tỷ lệ người làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân có trình độ từ cao đẳng trở lên đạt bình quân là 4,2%.

 

Trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực, Đảng và Nhà nước luôn chú ý đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao. Năm 2006, Việt Nam đã có khoảng 2.600.000 người có trình độ đại học và cao đẳng, trên 20.000 thạc sĩ và 16.000 tiến sĩ và tiến sĩ khoa học, 7.000 phó giáo sư và 1.200 giáo sư. Bình quân nhân lực có trình độ cao đẳng và đại học đạt 325 người-1 vạn dân, cán bộ khoa học và công nghệ đạt khoảng 6 người-1 vạn dân. Đội ngũ giáo viên trong các trường đại học và cao đẳng, đến năm 2005 - 2006 cả nước có 53.878 giảng viên (trong đó, 463 giáo sư, 2.467 phó giáo sư, 5.882 tiến sĩ và tiến sĩ khoa học, 18.272 thạc sĩ, 26.800 cử nhân, kỹ sư). Độ tuổi trung bình của các giáo sư năm 2005 là 58 và phó giáo sư là 47 tuổi[14].

 

Việt Nam vốn là một nư­ớc văn hiến, có truyền thống quý trọng nhân tài. Từ lâu ông cha ta đã khẳng định: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nư­ớc mạnh rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nư­ớc yếu rồi xuống thấp. Vì vậy các bậc thánh đế minh v­ương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên”[15].

 

Ngày nay, khi đất nư­ớc đang thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từng bư­ớc phát triển kinh tế tri thức thì vấn đề phát hiện, đào tạo, bồi d­ưỡng và sử dụng nhân tài lại càng quan trọng hơn bao giờ hết. Từ giữa năm 1997, Trư­ờng Đại học Khoa học tự nhiên thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội đã đi đầu cả n­ước thành lập Hệ đào tạo cử nhân khoa học tài năng ở một số ngành mũi nhọn như­ toán, vật lý, hóa học, sinh học. Đối tu­ợng tuyển chọn là những học sinh trung học phổ thông xuất sắc đã đạt giải Ô-lim-pích quốc tế hoặc giải nhất trong các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia và các học sinh đạt điểm cao trong các kỳ thi vào đại học. Kết quả từ các khóa đào tạo đầu tiên cho thấy, sinh viên ra truờng đạt chất lu­ợng cao, có năng lực t­u duy nghiên cứu khoa học tốt. Trên cơ sở những kết quả đạt được, Đại học Quốc gia Hà Nội dần dần mở rộng hình thức đào tạo này sang một số ngành khác nh­u công nghệ thông tin, quản lý kinh tế, v.v… Học tập kinh nghiệm của Đại học Quốc gia Hà Nội, một số tr­ường đại học khác nhu­ Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Bách khoa Hà Nội… cũng đã mở các chương trình đào tạo cử nhân tài năng, kỹ s­ư chất lu­ợng cao.

 

Chính phủ đã đ­ưa ra “Dự án thí điểm phát hiện, đào tạo, bồi d­ưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài năng phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Theo Dự án này, đến hết năm 2010, Nhà nư­ớc ta sẽ đầu t­ư 325 tỷ đồng và 11 triệu USD (mức thấp) đến 45 triệu USD (mức cao) để đào tạo 700 nhân lực tài năng tầm cỡ khu vực (gồm 350 nhà khoa học tài năng, 175 doanh nhân tài năng, 175 cán bộ lãnh đạo và quản lý tài năng) cho đất n­ước[16].

 

Do đào tạo được đội ngũ nhân lực có chất lượng cao, Việt Nam đã không ngừng nâng cao được trình độ khoa học và công nghệ cũng như ứng dụng và chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ. Trong nghiên cứu khoa học cơ bản, đã tập trung chủ yếu vào các ngành toán học, công nghệ thông tin, điều khiển học; vật lý chất rắn, quang học, vật lý lade, vật lý hạt nhân; cơ học các kết cấu công trình, cơ học các vật liệu mới, động lực học, thuỷ khí động học; hoá hữu cơ, hấp thụ và xúc tác, hoá phân tích; sinh vật học nhiệt đới, kỹ thuật tế bào, công nghệ gien, sinh học phân tử; địa chất, vật lý địa cầu, nghiên cứu địa lý, biến đổi khí hậu, dự báo các quá trình tai biến thiên nhiên Việt Nam, nghiên cứu biển, thềm lục địa.

 

Nhờ đó, khoa học và công nghệ đã góp phần tạo ra sự chuyển biến rõ rệt về năng suất, chất lượng và hiệu quả trong sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá. Những đổi mới công nghệ trong các ngành công nghiệp, đặc biệt là sản xuất cơ khí chế tạo kết cấu thép chuyên dụng, đóng tàu, viễn thông, điện lực, dầu khí, khai thác tài nguyên khoáng sản... đã làm cho sản xuất công nghiệp tăng trưởng cao liên tục trong những năm qua.

 

Trong lĩnh vực nông nghiệp, khoa học và công nghệ đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Từ một nước thiếu lương thực, nước ta đã trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Ngoài ra, Việt Nam còn xuất khẩu nhiều nông sản có giá trị khác như cà phê, cao su, chè, hạt điều, lạc nhân, hồ tiêu, đồ gỗ chế biến… Các nhà khoa học đã tạo ra 142 giống cây trồng mới có chất lượng và năng suất cao trong 5 năm gần đây. Chương trình giống đã mang lại hiệu quả lớn trên 90% diện tích lúa, 80% diện tích ngô, 60% diện tích mía, 100% diện tích điều.

 

Khoa học và công nghệ đã đóng góp đáng kể vào việc nâng cao chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của ngành giao thông vận tải trên các lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng, làm chủ công nghệ trong nghiên cứu, thử nghiệm, thiết kế chế tạo các sản phẩm có chất lượng cao như tàu chở dầu, tàu chở công-ten-nơ, tàu chở khách đến 100.000 tấn, các dàn khoan trên biển đạt tiêu chuẩn quốc tế...

 

Ngành xây dựng đã làm chủ được công nghệ thiết kế và thi công những công trình quy mô lớn, phức tạp như hầm Đèo Ngang, các loại cầu vượt khẩu độ lớn, các nhà máy nhiệt điện, thủy điện quy mô lớn, nhà cao tầng, công trình ngầm và nhiều công trình đặc dụng khác… Các kết quả ứng dụng công nghệ mới đã góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng chung của ngành ở mức trên 16% năm trong những năm qua.

 

Nhiều ứng dụng công nghệ kỹ thuật cao trong ngành y tế như: kính hiển vi cắt lớp, dao mổ laser, máy tán sỏi thận, cấy ghép tạng, phẫu thuật tim bằng nội soi, siêu âm, sản xuất vắc-xin, tạo da chữa bỏng... đã mang lại hiệu quả to lớn trong khám chữa bệnh.

 

Trong thời kỳ 1996 - 2005, cả nước đã có nhiều kết quả ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và tính đến tháng 7-2008, đã có trên 700 hợp đồng chuyển giao công nghệ nhập khẩu được thực hiện.  Năng lực làm chủ công nghệ nhập khẩu từng bước được nâng lên. Một số doanh nghiệp đã tổ chức nghiên cứu đổi mới công nghệ nhập để vừa đáp ứng yêu cầu của sản xuất vừa phát huy năng lực sáng tạo, đẩy nhanh tốc độ đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ.

 

Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài là yếu tố quan trọng quyết định thắng lợi của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước từ nay đến năm 2020.

 

4. Tham mưu xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

 

Ngành tuyên giáo đã tham mưu cho Đảng hệ thống các quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp để xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam là quá trình hai mươi năm đổi mới tư­ duy lý luận của Đảng về vai trò, vị trí của văn hoá. Để nhìn nhận sự đổi mới ấy, phải trở về với những văn kiện đầu tiên có tính chất cương lĩnh của Đảng về văn hoá. Năm 1943, Đảng công bố Đề cương văn hoá Việt Nam. Phạm vi vấn đề văn hoá đã đ­uợc xác định "bao gồm cả tư­ tư­ởng, học thuật và nghệ thuật", đồng thời Đảng cũng xác định văn hoá là một trong ba mặt trận: kinh tế, chính trị, văn hoá mà Đảng ta phải lãnh đạo. Từ năm 1986 đến nay, Đảng đã thể hiện rõ ràng sự đổi mới t­u duy trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực văn hoá. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng nhấn mạnh vị trí, vai trò của văn hoá. Bư­ớc chuyển quan trọng trong đổi mới tư­ duy về vai trò, vị trí của văn hoá trong Cương lĩnh “Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” được thông qua ở Đại hội VII  năm (1991) đã xác định "Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc". Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ­uơng (khoá VII), tiếp tục phát triển: "Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội".

 

Mốc đánh dấu sự đổi mới tòan diện trong t­ư duy về văn hoá của Đảng được khẳng định trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ­ương khoá VIII: "Về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc". Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức sõu sắc về các giá trị văn hoá của dân tộc với sự tiến bộ của thời đại; giữa đời sống tinh thần và yêu cầu xử lý các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, đã chỉ ra mục tiêu, giải pháp cho sự nghiệp phát triển văn hoá trong giai đoạn trư­ớc mắt cũng như lâu dài của nư­ớc ta.

 

Nét mới đầu tiên là sự xác định nội dung của hai khái niệm: tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc. Từ Đề c­ương văn hoá năm 1943, Đảng đã xác định ba nguyên tắc vận động của nền văn hoá Việt Nam: Dân tộc hoá, đại chúng hoá và khoa học hoá. Vào thời điểm ấy, Đảng xác định nền văn hoá mới mà cuộc cách mạng văn hoá phải thực hiện là văn hoá xã hội chủ nghĩa, văn hoá có tính chất dân tộc về hình thức, dân chủ về nội dung. Trong sự nghiệp đổi mới, tính chất của nền văn hoá xã hội chủ nghĩa Việt Nam đ­ược Đảng xác định là tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc .

 

Tính chất tiên tiến của nền văn hoá mà chúng ta xây dựng và phát triển là yêu n­ước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý t­uởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cần phân biệt tính chất tiên tiến và tính chất hiện đại. Không nên đồng nhất tính tiên tiến với các sản phẩm văn hoá đuợc tạo ra từ sự tiến bộ của khoa học, kỹ thuật và các giá trị, các sản phẩm văn hoá ph­ương Tây hay châu Mỹ. Mặt khác, tính chất tiên tiến của nền văn hoá phải được thể hiện cả ở nội dung tu­ tưởng và trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội dung.

 

Bản sắc dân tộc phải đ­ược hiểu như­ một hệ thống mở, gồm nhiều thành tố, nhiều cấp độ. Bởi lẽ, khái niệm dân tộc tại Việt Nam trong nhiều năm nay được hiểu ở hai cấp độ: dân tộc - quốc gia bao gồm nhiều cộng đồng tộc ngư­ời và dân tộc đ­uợc hiểu là một cộng đồng mang tính tộc người. Bản sắc dân tộc phải đ­ược hiểu là sự hoà hợp một cách biện chứng bản sắc tộc ngư­ời. 54 dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam, mỗi dân tộc, qua tr­ường kỳ lịch sử, trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên, xã hội và chính mình đã tạo dựng đ­ược bản sắc dân tộc của mình và bản sắc dân tộc ấy góp phần làm đậm nét, sinh động hơn bản sắc dân tộc Việt Nam.

 

Nét mới thứ hai trong tư­ duy lý luận về văn hoá của Đảng là đặt văn hoá liên quan đến phát triển. Văn hoá đ­uợc xác định là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Xác định văn hoá là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển là sự đổi mới vô cùng quan trọng trong tư­ duy về văn hoá của Đảng, trung thành với tư tư­ởng Hồ Chí Minh. Năm 1946, Ngư­ời từng viết: "Văn hoá phải soi đ­uờng cho quốc dân đi".

 

Nét mới thứ ba trong tư duy lý luận về văn hoá của Đảng là khẳng định tính thống nhất mà đa dạng của văn hoá Việt Nam. Khẳng định điều này, thực ra chỉ là sự tô đậm quan điểm của Đảng ta về vấn đề dân tộc. Việt Nam là quốc gia đa dân tộc. Nền văn hoá Việt Nam đuợc tạo thành từ 54 nền văn hoá của các dân tộc chung sống trên đất nước Việt Nam. Mỗi con ngư­ời Việt Nam vừa là một thực thể với tư cách công dân của một dân tộc - quốc gia, vừa là thực thể với tư­ cách một thành viên của một cộng đồng dân tộc - tộc ng­ười. Trong cách hiểu khái niệm thống nhất mà đa dạng của văn hoá Việt Nam không nên hiểu sự thống nhất ở nội dung mà đa dạng ở hình thức của văn hoá các dân tộc. Sự thống nhất mà đa dạng phải đ­ược hiểu cả ở nội dung lẫn hình thức, trong đó về mặt hình thức, văn hoá thể hiện tính đa dạng, tính phong phú rõ hơn, như­ng về mặt nội dung, tính thống nhất lại giữ vai trò khẳng định bản sắc văn hoá từng dân tộc.

 

Nét mới thứ tư, coi văn hoá là một trong ba yếu tố quyết định của sự phát triển toàn diện và bền vững. “Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước”[17].

 

Nét mới thứ năm, coi văn học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hóa; là nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người; là một trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam. Quan tâm tài năng văn học, nghệ thuật là vốn quí của dân tộc. Chăm lo phát hiện, bồi dưỡng, quý trọng và phát huy các tài năng văn học, nghệ thuật là trách nhiệm của toàn xã hội, trước hết là của Đảng, Nhà nước và của các tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp. Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do sáng tạo, tạo điều kiện thuận lợi phát huy tính độc lập, khơi dậy mọi nguồn lực sáng tạo của văn nghệ sĩ. Văn nghệ sĩ, người chiến sĩ xây dựng và phát triển nền văn nghệ tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, cần phát huy lòng yêu nước nồng nàn, gắn bó mật thiết với nhân dân, nêu cao trách nhiệm công dân, sáng tạo nên nhiều tác phẩm có giá trị phụng sự đất nước và dân tộc[18].

 

Thể chế hoá những quan điểm mới về văn hoá của Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã ban hành Pháp lệnh Thư­ viện, Pháp lệnh Quảng cáo, Luật Xuất bản, Luật Báo chí (sửa đổi), Luật Di sản văn hoá, quyền tác giả trong Luật Dân sự v.v..., những nghị định 90-CP, 73-CP về công tác xã hội hoá các hoạt động văn hoá.

Những quan điểm của Đảng và các văn bản thể chế hoá của Nhà nước về văn hoá đã đi vào cuộc sống, phát triển khá mạnh mẽ trong những năm qua. Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong điều kiện toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế hiện nay là sự phát triển sáng tạo về lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới của Đảng, trong đó có sự đóng góp tích cực và hiệu quả của Ngành Tuyên giáo.

 

5. Tham mưu, chỉ đạo công tác báo chí, xuât bản

 

Ban Tuyên giáo Trung ương cùng Ngành Tuyên giáo đã bám sát thực tiễn,  tham mưu, đề xuất cho Đảng và Nhà nước lãnh đạo, quản lý báo chí, xuất bản ngày càng hiệu quả hơn trong sự nghiệp đổi mới.

 

Đảng khẳng định các phương tiện thông tin đại chúng có nhiệm vụ truyền bá đường lối, chính sách của Đảng, đi sát thực tế, thông tin kịp thời và phân tích sâu sắc những sự kiện mới, phát hiện và phản ánh trung thực, nhiệt tình ủng hộ những điển hình tiên tiến, dũng cảm đấu tranh chống những biểu hiện lạc hậu, trì trệ và mọi tiêu cực khác; đề cập và chỉ ra phương hướng giải quyết những vấn đề thiết thực mà xã hội quan tâm; xây dựng dư luận xã hội lành mạnh, động viên quần chúng tích cực hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Các hoạt động văn hoá, thông tin, báo chí, xuất bản đổi mới về nội dung và phương pháp thông tin; về nghiên cứu và sáng tạo; tự phê bình và phê bình; thảo luận công khai, dân chủ các ý kiến khác nhau; đấu tranh phê phán các hiện tượng tham nhũng, tiêu cực; biểu dương, cổ vũ những nhân tố mới. Báo chí, xuất bản của cơ quan Đảng, Nhà nước, các đoàn thể quần chúng hay của tổ chức xã hội đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và hoạt động theo pháp luật.

 

Trong những năm đổi mới, thành tích nổi bật của báo chí, xuất bản là:

 

- Nắm vững và tuyên truyền sâu rộng, kịp thời, có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tích cực cổ vũ những thành tựu của công cuộc cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.

 

- Phát hiện, biểu dương các nhân tố mới, điển hình tiên tiến; tích cực đấu tranh, góp phần hạn chế và từng bước đẩy lùi tệ nạn tham nhũng, lãng phí, quan liêu, các tiêu cực và tệ nạn xã hội.

 

- Tiến hành có hiệu quả cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, phản động, thù địch.

 

- Góp phần phát huy ưu điểm, khắc phục các yếu kém, khuyết điểm, nâng cao chất lượng tư tưởng, tính hấp dẫn, mở rộng đối tượng độc giả, ngày càng hiện đại về mô hình tổ chức hoạt động, về cơ sở vật chất, kĩ thuật và công nghệ.

 

- Cung cấp  thông tin về các sự kiện, vấn đề mà xã hội quan tâm; là diễn đàn của các tầng lớp nhân dân về các vấn đề trong đời sống xã hội.Cũng nhờ có thông tin đúng đắn, nhiều chiều từ báo chí, xuất bản mà các quyết định, chủ trương của Đảng đã đi đúng quy luật hơn, đảm bảo tính hiện thực, tính khả thi cao hơn, làm cho "ý Đảng" hợp "lòng dân".

 

- Định hướng dư luận xã hội, hướng nhân dân tới những nhận thức, hành động, tình cảm tốt đẹp, phù hợp; thoả mãn những nhu cầu giao lưu tình cảm, giải trí, hướng thiện của các tầng lớp nhân dân…

 

- Phổ biến những xuất bản phẩm có giá trị đến nhiều người nhằm giới thiệu tri thức thuộc các lĩnh vực của đời sống xã hội, giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại cho nhân dân.

 

Từ khi Đảng ta tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, báo chí, xuất bản tiếp tục phát triển nhanh về số lượng, loại hình, ấn phẩm, đội ngũ và số lượng người đọc; cơ sở vật chất kĩ thuật, công nghệ, năng lực tài chính được tăng cuờng một bước. Tác động, ảnh hưởng của báo chí, xuất bản được mở rộng. Phần lớn báo chí và các nhà xuất bản hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích, phản ánh kịp thời tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, biểu dương phong trào thi đua yêu nước, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các tệ nạn xã hội, chống “diễn biến hoà bình”... góp phần tích cực vào thành tụu chung của đất nước.

 

6. phát triển lý luận về con người, xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong quá trình phát triển

 

Công tác tuyên giáo là công tác đối với con người nhằm giải phóng tiềm năng con người, phát huy nội lực con người và sử dụng một cách có hiệu quả mọi nguồn lực con người. Đảng và Nhà nước xác định giáo dục là quốc sách hàng đầu, coi con người là lực lượng sản xuất quan trọng nhất trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

 

Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu và phát triển con người là những quan điểm có tính chất nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về con người. Với sự nghiệp đổi mới, con người được hiểu một cách sâu sắc, thực tế hơn dựa vào những thành tựu của khoa học hiện đại và những tư tưởng tiến bộ mà nhân loại đã đạt tới... để nghiên cứu con người đúng như nó vốn có: một thực thể văn hoá văn minh, một sinh thể xã hội, đang làm ra của cải vật chất, làm ra các giá trị và làm ra chính bản thân con người. Chính vì vậy, chúng ta khẳng định, con người Việt Nam là tài sản quý giá nhất của quốc gia.

 

Trong mọi hoàn cảnh lịch sử của cách mạng Việt Nam, Đảng ta không quan niệm con người chung chung, phi giai cấp mà chính là những người lao động, là quần chúng nhân dân, là chủ thể của lịch sử. Sứ mệnh của Đảng là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, trong đó giải phóng con người là mục tiêu cao nhất. Vấn đề dân tộc, giai cấp, vấn đề con người ở đây gắn bó hữu cơ với nhau. Con người chỉ được giải phóng khi dân tộc, giai cấp được giải phóng. Không có độc lập dân tộc thì giai cấp và con người không có tự do. Như vậy, việc giải phóng nhân dân khỏi ách đô hộ thực dân, phong kiến mới chỉ là thắng lợi bước đầu của cách mạng. Mục đích lâu dài của cách mạng là đem lại cho con người cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được làm chủ bản thân và làm chủ xã hội. “Nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”[19]

 

Chăm lo cho con người, chú trọng “trồng người”, “lấy dân làm gốc”, phát triển con người một cách toàn diện... là những tư tưởng từ lâu đã trở thành truyền thống của Việt Nam. Đó là những tư tưởng được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và nâng lên một tầm cao mới. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh coi vấn đề con người là vấn đề hàng đầu. Đến tận cuối đời, Người vẫn dặn lại trong Di chúc “Đầu tiên là công việc đối với con người”[20]. Thực tiễn lịch sử hiện đại cũng đã chứng minh rằng, trong quá trình phát triển, nhân tố quyết định là nguồn nhân lực, là nguồn lao động, con người là động lực của sự phát triển. Từ Đại hội VI của Đảng (1986) đến nay, tư tưởng này từng bước đã được quán triệt trong các chủ trương, chính sách kinh tế - xã hội và trở thành quan điểm chỉ đạo: con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề lợi ích được giải quyết dần dần theo hướng “lợi ích của mỗi người, của từng tập thể và của toàn xã hội gắn bó hữu cơ với nhau, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp”[21]. Tại Đại hội IX, Đảng ta khẳng định: “Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam; coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá”[22]. Đó là một tư tưởng có tầm chiến lược quan trọng. Con người Việt Nam trong thế kỷ XXI, trước hết phải là những con người được đào tạo có trí tuệ, có tay nghề vững vàng; là người lao động có chất lượng cao, có giác ngộ cách mạng sâu sắc, có đạo đức trong sáng; nói theo thuật ngữ quen thuộc thì đó là những người “vừa hồng, vừa chuyên”.

 

Vào thập niên 80 của thế kỷ XX, Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) đã đưa ra khái niệm “phát triển con người”, xác định những tiêu chí để đánh giá và xếp hạng trình độ phát triển của các nước trong Liên hợp quốc theo tiêu chí phát triển con người (HDI[23]), gồm tiêu chí về thu nhập đầu người (GDP-đầu người) và 2 tiêu chí về năng lực con người (giáo dục và sức khoẻ).  Từ năm 1990, HDI đã trở thành công cụ xác định chiến lược phát triển của mỗi quốc gia, thước đo đánh giá trình độ phát triển hàng năm trên thế giới. Đây thực sự là một thành quả to lớn của chủ nghĩa nhân văn trong thời đại mới.

 

Đảng và Nhà nước ta thường xuyên chăm lo đến phát triển giáo dục, chăm sóc sức khoẻ và nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân, đặc biệt là trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới.

 

Nhìn lại lịch sử phát triển giáo dục ở nước ta, không ai có thể phủ nhận được thành tựu to lớn trong 65 năm qua. Nước ta đã hoàn thành xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước vào năm 2000; năm 2006 tỷ lệ dân số 10 tuổi trở lên của cả nước biết chữ là 94%, số năm học trung bình của dân số từ 15 tuổi trở lên là 9,6. Hiện nay cả nước đang thực hiện phổ cập trung học cơ sở, đến 6-2008 đã có 42-64 tỉnh thành phố đạt chuẩn phổ cập tiểu học đúng độ tuổi, 42-64 tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở (tính đến 317/2008).

 

Trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân ở nước ta tiếp tục đạt được nhiều kết quả, chăm sóc tốt hơn sức khoẻ nhân dân ở các vùng, miền, tăng tuổi thọ trung bình ở người Việt Nam từ 68 (năm 1999) lên 74,3 (năm 2009). Cơ bản xoá được xã trắng về y tế, trên 97% số xã, phường trong cả nước đã xây dựng được trạm y tế. Đến cuối tháng 12 năm 2009, 100% số xã và 90% số thôn bản đã có cán bộ y tế hoạt động, 69% số xã có bác sỹ làm việc, hơn 65% xã đạt chuẩn quốc gia về y tế, trên 70% số xã đã thực hiện khám bệnh, chữa bệnh ban đầu cho người có thẻ bảo hiểm y tế. Công tác dân sốkế hoạch hoá gia đình đã có nhiều chuyển biến tích cực, hệ thống công tác dân sốkế hoạch hoá gia đình đã từng bước ổn định và hoạt động có hiệu quả; tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên có xu hướng giảm từ 1,31% năm 2005 xuống còn dưới 1,20% năm 2009 và dự kiến đạt 1,14% vào năm 2010. Giảm tỷ suất sinh đạt được mục tiêu Quốc hội giao; tỷ lệ sinh con thứ 3 giảm từ 20,8% vào năm 2005 xuống còn 16% vào năm 2009; chất lượng dân số từng bước được cải thiện cả về thể chất, trí tuệ và tinh thần.

 

Ngành Tuyên giáo không trực tiếp tham mưu về kinh tế cho Đảng, nhưng  rất tích cực và thường xuyên tuyên truyền đường lối, chiến lược, các chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước. Trong công cuộc đổi mới, vấn đề phát triển kinh tế là một nội dung quan trọng trong công tác tuyên truyền của Ngành Tuyên giáo. Gần đây nhất là tuyên truyền về cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước; phong trào xoá đói, giảm nghèo; người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam; các giải pháp của Chính phủ để khắc phục cuộc khủng hoảng và suy giảm kinh tế, v.v… Có thể nói, công tác tuyên giáo đã góp phần đắc lực trong việc tuyên truyền, phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta, đặc biệt là trong sự nghiệp đổi mới đất nước. GDP của Việt Nam năm 2009 đạt 5,32%, đã vượt mục tiêu 5% của Quốc hội đề ra, đứng vào hàng các nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao của khu vực và trên thế giới. Thu nhập bình quân tính theo đầu người đạt trên 1000 USD, đưa Việt Nam thoát khỏi diện các nước nghèo của thế giới.

 

Kể từ khi Việt Nam có mặt trong Báo cáo thường niên của Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc, chỉ số phát triển con người của Việt Nam đã có sự tiến bộ không thể phủ nhận trong tiến trình đổi mới, không chỉ là tăng trưởng kinh tế, phát triển công nghệ hay hội nhập vào đời sống quốc tế, mà là phát triển con người Việt Nam, nâng cao thứ bậc HDI của Việt Nam. Theo báo cáo của Liên hợp quốc về Phát triển con người năm 2009 với số liệu lấy từ năm 2007, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam xếp thứ 116-182 nước. Như vậy, trong giai đoạn 1985 - 2007, mỗi năm HDI của Việt Nam tăng thêm 1,16% (từ 0,561 lên 0,725). Ngoài chỉ số HDI, hai chỉ số khác khá cao của Việt Nam là tuổi thọ trung bình (xếp thứ 54 thế giới với tuổi thọ trung bình là 74,3) và tỉ lệ biết chữ ở người lớn xếp thứ 69 (chiếm 90,3% người từ 15 tuổi trở lên)[24].

 

Sự phát triển con người Việt Nam trong những năm qua có sự cố gắng rất lớn của những người làm công tác tuyên giáo trong việc tham mưu cho Đảng, phối hợp, đôn đốc các cơ quan nhà nước thể chế hoá và thực thi trong đời sống các quan điểm của Đảng, tích cực tuyên truyền đến các thành viên trong toàn xã hội phải có trách nhiệm chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của người dân, khích lệ mọi người tiếp tục phấn đấu vì mục tiêu phát triển con người để con người thực sự trở thành động lực và mục tiêu trong quá trình phát triển.

 

7. Dự báo, phát hiện, tham gia định hướng, giải quyết những vấn đề bức xúc về tư tưởng, củng cố sự đoàn kết trong Đảng, tạo sự đồng thuận xã hội

 

Dự báo, phát hiện, tham gia định hướng, giải quyết những vấn đề bức xúc về tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân là nhiệm vụ thường xuyên và quan trọng của Ngành Tuyên giáo. Có những vấn đề gây bức xúc về tư tưởng đến toàn xã hội, tác động đến mọi tầng lớp nhân dân như việc cắm mốc biên giới, chủ quyền ở biển Đông, nước ngoài tham gia khai thác bô xít ở Tây Nguyên... Một số vấn đề gây bức xúc về tư tưởng mang tính cục bộ trong địa phương nào đó, không giải quyết kịp thời, nó sẽ lan rộng ra các địa phương khác, gây mất ổn định xã hội như các vấn đề dân tộc, tôn giáo, tranh chấp đất đai, chính sách đền bù giải phóng mặt bằng... Sẽ đặc biệt nghiêm trọng khi các vấn đề bức xúc nói trên bị các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc, kích động làm cho nhân dân hoang mang, dễ dẫn đến những việc làm không có lợi.

 

Dự báo được tính nhạy cảm, phức tạp, có thể gây bức xúc về tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong việc cắm mốc biên giới, chủ quyền ở biển Đông, nước ngoài tham gia khai thác bô xít ở Tây nguyên... Ban Tuyên giáo Trung ương đã nghiên cứu, chuẩn bị các chương trình tuyên truyền kịp thời đối với các sự kiện nói trên. Kết hợp chặt chẽ với Ban Biên giới Chính phủ, Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng... Ban Tuyên giáo Trung ương đã biên soạn các tài liệu tuyên truyền “Một số nội dung về vấn đề biên giới và kết quả công tác phân giới, cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc”, “Biên giới và hải đảo Việt Nam”, “Một số vấn đề về tình hình biển Đông và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa”. Qua những tài liệu đó, đã tuyên truyền, giải thích cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu được ý nghĩa to lớn của việc hoàn thành phân giới, cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc; thái độ kiên trì có nguyên tắc về chủ quyền biên giới, hải đảo, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa của Đảng và Nhà nước ta. Ngành Tuyên giáo cũng đã chỉ đạo đội ngũ báo cáo viên, báo chí ở Trung ương và địa phương tuyên truyền, giải thích ý nghĩa kinh tế và xã hội của việc khai thác bô xít ở Tây Nguyên, đồng thời vẫn bảo đảm an ninh - quốc phòng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

 

Về vấn đề dân tộc, tôn giáo, Ban Tuyên giáo Trung ương cùng với Ban tuyên giáo các địa phương thường xuyên tuyên truyền, giải thích rõ với đồng bào các tôn giáo, đồng bào dân tộc ít người và toàn thể nhân dân chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về tự do tín ngưỡng, về sự bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc. Cùng với việc giải thích, tuyên truyền đối với đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào là tín đồ của các tôn giáo và toàn thể nhân dân; ngành tuyên giáo tham gia định hướng, giải quyết nhiệm vụ phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội:

 

-  Đẩy mạnh phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào thiểu số, rút ngắn khoảng cách chênh lệch mức sống giữa các dân tộc, giữa người kinh và các dân tộc thiểu số.

 

-  Nâng cao dân trí, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của đồng bào dân tộc.

 

-  Thực hiện tốt chính sách tôn giáo, bảo đảm tự do tôn giáo của đồng bào và ngăn chặn những hành vi lợi dụng tôn giáo của các lực lượng phản động.

 

-  Tăng cường xây dựng cơ sở chính trị trong vùng đồng bào dân tộc, ưu tiên đào tạo cán bộ người dân tộc đáp ứng yêu cầu, bố trí phân công ở các địa bàn, các lĩnh vực cần thiết.

 

-  Bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong vùng đồng bào dân tộc. Trừng trị những tên phản động còn ẩn náu, ngấm ngầm phá hoại bên trong và ngăn chặn những tên phản động thâm nhập từ bên ngoài.

 

Ban Tuyên giáo Trung ương đã biên soạn tài liệu “Quyết tâm xây dựng Tây Nguyên giàu đẹp” bằng 5 thứ tiếng: Việt, Bana, Êđê, Jarai, M`nông. Tài liệu đã thể hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào các dân tộc Tây Nguyên và quyết tâm xây dựng Tây Nguyên – căn cứ địa chiến lược của cách mạng, trở nên giàu đẹp.

 

Những năm qua, nhất là giai đoạn đổi mới, Ngành Tuyên giáo đã chủ động dự báo, phát hiện, tham gia định hướng, giải quyết những vấn đề bức xúc về tư tưởng, củng cố sự đoàn kết trong Đảng, tạo sự đồng thuận xã hội, góp phần quan trọng vào sự thành công trong công cuộc đổi mới của Đảng.

 

8. Phản bác kịp thời những luận điệu xuyên tạc, phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng

 

Các thế lực thù địch đã và đang sử dụng nhiều phương tiện, bằng nhiều con đường với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt để tuyên truyền các luận điệu nhằm xuyên tạc, phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng. Chúng thường tập trung xuyên tạc, phủ định một số vấn đề lý luận và thực tiễn sau đây:

 

Một là, phủ định những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Cho rằng những nguyên lý đó chỉ đúng trong thời kỳ tư bản công nghiệp nửa cuối thế kỷ thứ XIX, đầu thế kỷ thứ XX. Ngày nay loài người đã ở giai đoạn hậu công nghiệp, văn minh tin học và nền kinh tế tri thức thì những lý luận đó đã  lạc hậu, lỗi thời. Sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ thì các thế lực thù địch đã phủ định hoàn toàn chủ nghĩa Mác - Lênin.

 

Hai là, phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh và xuyên tạc đường lối đổi mới của Đảng. Theo chúng, cụ Hồ không phải nhà lý luận, không phải nhà tư tưởng, ít am hiểu về chủ nghĩa xã hội và văn hoá nhân loại nên không có tư tưởng cách mạng gì để dẫn dắt nhân dân Việt Nam. Xuyên tạc đường lối đổi mới của Đảng khi cho rằng kinh tế thị trường không thể dung hợp được với chủ nghĩa xã hội; nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ là sự gán ghép, áp đặt chủ quan; chế độ độc đảng thì không bao giờ có dân chủ, nhân quyền, v.v…

 

Ba là, xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ lãnh tụ, đặc biệt là tập trung vào Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo chúng, nhân dân ta không cần tiến hành hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, ngày nay chúng ta vẫn có độc lập, tự do.

 

Bốn là, xuyên tạc tình hình thực tế Việt Nam, vu cáo ta vi phạm dân chủ, nhân quyền, dựng chuyện Việt Nam đàn áp tôn giáo, kỳ thị, phân biệt đối xử với các dân tộc thiểu số, nhất là đồng bào thiểu số ở Tây Nguyên, Tây Bắc và Tây Nam Bộ.

 

Năm là, bịa đặt, dựng chuyện có phái cấp tiến, phái bảo thủ trong cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước để chia rẽ nội bộ, gây sự hoài nghi lẫn nhau, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới.

 

Trước những luận điệu phủ định, xuyên tạc, vu cáo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng; Ban Tuyên giáo Trung ương cùng toàn Ngành Tuyên giáo đã nghiên cứu, chủ động, tích cực phản bác các luận điệu của các thế lực thù địch, bảo vệ tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới sáng tạo và hiệu quả của Đảng.

 

Chúng ta đã tổ chức nghiên cứu đề tài cấp nhà nước, tổ chức hội thảo khoa học; viết bài phản bác, phê phán trên các phương tiện thông tin đại chúng; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên Đài Truyền hình Việt Nam; tổ chức các đợt tuyên truyền miệng; tham mưu cho Đảng phát động và tổ chức triển khai Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và nhiều hoạt động khác để làm thất bại mọi âm mưu của các thế lực phản động.

 

Bằng những lập luận khoa học và thực tiễn sinh động, chúng ta đã chứng minh một cách thuyết phục một số vấn đề sau đây:

 

1. Giá trị bền vững của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, học thuyết giá trị thặng dư, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, thế giới quan khoa học và phương pháp duy vật biện chứng... của chủ nghĩa Mác - Lênin.

 

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người[25]. Tư tưởng đạo đức, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh tiêu biểu cho giá trị văn hoá cao đẹp của dân tộc được toàn Đảng, toàn dân kính phục, tự nguyện học tập và làm theo.

 

3. Đường lối đổi mới là kết quả của quá trình tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận của Đảng. Đảng đã xây dựng và phát triển một hệ thống các luận điểm đầy sáng tạo, trong đó tiêu biểu nhất là nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa – đây được coi là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử về kinh tế, chính trị, văn hoá, đối ngoại, an ninh, quốc phòng... rất đáng tự hào trong gần 25 năm là bằng chứng hùng hồn về sự đúng đắn, sáng suốt của Đảng.

 

4. Ở Việt Nam không có đàn áp tôn giáo, phân biệt, kỳ thị các dân tộc thiểu số. Mỗi người dân đều có quyền tự do tín ngưỡng, tham gia sinh hoạt các tôn giáo theo quy định của pháp luật. Có nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước tạo thuận lợi cho đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là để nhân dân thực sự làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Đại đoàn kết toàn dân tộc để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và đồng bào ta định cư ở nước ngoài là một chủ trương lớn và nhất quán của Đảng và Nhà nước ta.

 

5. Các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng cũng như toàn thể đảng viên và nhân dân Việt Nam thống nhất cao với đường lối đổi mới của Đảng, không có chia rẽ nội bộ do bất đồng về quan điểm gây ra. Trong mỗi dịp đại hội Đảng, nội dung văn kiện đại hội không những được toàn thể đảng viên tham gia góp ý, mà còn xin ý kiến đóng góp của toàn thể nhân dân bằng con đường tổ chức hoặc trên các phương tiện thông tin đại chúng.

 

Do có nhiều cố gắng của Ngành Tuyên giáo trong việc phản bác những luận điệu xuyên tạc, phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng mà xã hội vẫn ổn định về chính trị tư tưởng, nền tảng tư tưởng của Đảng được giữ vững; toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đều nhất trí cao và cố gắng thực hiện mục tiêu xây dựng đất nước: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

 

9. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách từ Trung ương đến địa phương

 

a. Ở Trung ương:

 

Bộ Chính trị, Ban Bí thư luôn chăm lo, chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách tuyên giáo vững mạnh. Đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư của Đảng, kiêm Trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương từ năm 1953 đến 1960. Đảng đã cử những nhà lý luận, nhà báo xuất sắc, các giáo sư, viện sĩ đầu ngành giữ chức lãnh đạo Ban Tuyên giáo Trung ương. Lựa chọn, tập hợp được đội ngũ cán bộ cấp vụ và chuyên viên các vụ chuyên môn là những người am hiểu tương đối sâu một số lĩnh vực chuyên môn như giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, báo chí - xuất bản, văn hoá - văn nghệ, chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh... Nhiều người có học hàm giáo sư, phó giáo sư; học vị tiến sĩ khoa học, tiến sĩ, thạc sĩ. Tỷ lệ người có học hàm, học vị trong Lãnh đạo Ban và các vụ chuyên môn vào loại cao nhất trong các ban tham mưu của Ban Chấp hành Trung ương. Để làm tốt nhiệm vụ cán bộ tuyên giáo chuyên trách ở Trung ương, trước hết phải là một nhà chuyên môn vững vàng. Đồng thời họ là những người am hiểu sâu sắc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; kinh qua hoạt động thực tiễn, có quan điểm, lập trường chính trị vững vàng; có am hiểu về công tác tham mưu, nghiệp vụ sư phạm, khả năng tuyên truyền...; có lòng yêu nước nồng nàn, không sợ khó khăn, gian khổ; luôn trung thành tuyệt đối với sự nghiệp của Đảng và nhân dân.

 

Chính vì vậy, trong những năm qua, đội ngũ cán bộ Ban Tuyên giáo Trung ương đã hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ của mình. Đã tham mưu nhiều luận điểm mới trong lĩnh vực tuyên giáo, được thực tiễn cuộc sống kiểm nghiệm là đúng đắn và có tác động sâu rộng, tích cực đến đời sống nhân dân. Đã góp phần tham mưu hình thành một số lý luận mới của Đảng trong quá trình tìm tòi, làm sáng tỏ về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam[26]. Ngoài nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất, đội ngũ cán bộ Ban Tuyên giáo Trung ương cũng đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ mà Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao cho như: thẩm định; hướng dẫn, kiểm tra; tham gia công tác xây dựng tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên giáo; thông tin đối ngoại và hợp tác quốc tế; thực hiện một số nhiệm vụ do Bộ Chính trị, Ban Bí thư uỷ nhiệm.

Do có những đóng góp to lớn và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, năm 2002, nhân kỷ niệm 72 năm (1-8-1930 – 1-8-2002) Ngày Truyền thống công tác tư tưởng, văn hoá của Đảng (hiện nay là Ngày truyền thống công tác Tuyên giáo của Đảng); Ban Tuyên giáo Trung ương đã vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng. Đây là phần thưởng cao quý nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

 

b. Ở địa phương:

 

Các tỉnh uỷ, thành uỷ thường xuyên quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ tuyên giáo chuyên trách ở địa phương mình từ tỉnh, thành phố đến cơ sở. Họ là những cán bộ hiểu tương đối sâu sắc về chuyên môn của các lĩnh vực trong khối tuyên giáo, tham mưu cho cấp uỷ xây dựng và triển khai các nghị quyết trong lĩnh vực tuyên giáo phù hợp với thực tiễn của địa phương. Đây là những cán bộ lăn lộn với phong trào, đắm mình trong thực tiễn để tổng kết thực tiễn và góp phần khái quát lý luận đổi mới. Cán bộ tuyên giáo chuyên trách ở địa phương là người góp phần quyết định quan trọng để biến đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thành hiện thực sinh động trong cuộc sống. Họ luôn có mặt ở những nơi khó khăn nhất về phát triển kinh tế - xã hội, những điểm nóng về tôn giáo, dân tộc, tranh chấp đất đai, khiếu kiện đông người, những thảm hoạ về thiên tai, nguy cơ dịch bệnh... để làm công tác tư tưởng cho nhân dân, cùng nhân dân khắc phục hậu quả xảy ra, đem lại niềm tin cho mọi người. Cán bộ tuyên giáo chuyên trách ở địa phương trưởng thành từ thực tiễn và thông qua thực tiễn, có hiểu biết về chuyên môn, lập trường kiên định, bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn tận tuỵ với dân, trung thành với Đảng, hết lòng với công việc.

 

Làm cán bộ chuyên trách ngành tuyên giáo dù ở Trung ương hay địa phương cũng đều chịu thiệt thòi về lợi ích vật chất so với cán bộ ở các ban, ngành khác. Một bác sĩ, giáo viên, nhà văn, nhà báo... khi chuyển về làm công tác tuyên giáo chuyên trách sẽ giảm thu nhập so với các ngành của cơ quan nhà nước, nhưng cuộc sống phải mẫu mực hơn, mô phạm hơn. Họ không hề so sánh thiệt hơn, chấp hành sự phân công của Đảng, luôn phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Tuy vậy, về lâu dài, trong quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ tuyên giáo chuyên trách vững mạnh, Đảng cần có chính sách quan tâm đến lợi ích vật chất và tinh thần của đội ngũ này nhiều hơn nữa để thu hút được những người có đức, có tài tự nguyện về làm công tác tuyên giáo của Đảng.

 

II. Một số hạn chế của công tác tuyên giáo

 

1. Tham mưu trên một số lĩnh vực công tác tuyên giáo còn chưa kịp thời, nhạy bén, chưa chú trọng đúng mức nghiên cứu, đề xuất những vấn đề có tính chiến lược. Một số vấn đề ở tầm quan điểm, chủ trương lớn chưa tích cực góp phần làm rõ nên chưa đạt được sự thống nhất cao về nhận thức và thiếu dứt khoát trong hoạch định chính sách, chỉ đạo điều hành như mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng phát triển; giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị; giữa đổi mới với ổn định và phát triển; giữa độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế…

 

2. Tham mưu, chỉ đạo khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo còn nhiều yếu kém, hai lĩnh vực đó chưa thực là quốc sách hàng đầu.

 

Giáo dục và đào tạo còn bất cập cả về quy mô, cơ cấu, nhất là chất lượng và hiệu quả. Đào tạo chưa gắn với nhu cầu của thị trường lao động, với yêu cầu của công nghệ sản xuất. Chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam được đánh giá thấp, ảnh hưởng xấu đến sức hấp dẫn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Cơ cấu trình độ đào tạo và ngành nghề còn mất cân đối. Các điều kiện để bảo đảm phát triển giáo dục còn thiếu và chưa hợp lý.

 

Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đã có sự tăng nhanh về số lượng, nhưng chất lượng còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của các ngành kinh tế - xã hội và của doanh nghiệp. Bất hợp lý về cơ cấu ngành nghề và phân bổ đội ngũ, nhiều lĩnh vực cần phát triển nhanh còn rất thiếu nhân lực khoa học và công nghệ. Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ chủ chốt đang bị lão hoá, kiến thức mới ít có điều kiện cập nhật, sự hẫng hụt về cán bộ trong nhiều lĩnh vực là nghiêm trọng, nhất là trong lĩnh vực khoa học cơ bản.

 

3. Công tác tư tưởng, văn hoá còn thiếu sắc bén, sức thuyết phục chưa cao, tính chiến đấu còn hạn chế, chưa sát với thực tiễn. Chưa triển khai tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, những quan điểm mơ hồ, sai trái. Chưa quan tâm đúng mức việc giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ. Phạm vi tác động, ảnh hưởng của công tác tư tưởng, văn hoá chưa sâu rộng. Công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch có lúc còn bị động, hiệu quả thấp. Chưa huy động đầy đủ được sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị làm công tác tư tưởng, văn hoá. Vai trò của nhiều cấp ủy chưa nổi rõ. Nội dung, phương pháp công tác tư tưởng, văn hoá chậm đổi mới, hoạt động của các lĩnh vực tư tưởng, văn hoá chưa đồng đều, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp, các bộ phận. Nhiều vấn đề bức xúc của nhân dân trong lĩnh vực khoa giáo (ô nhiễm môi trường sinh thái; các vấn đề dạy thêm, học thêm, chất lượng giáo dục, viện phí, quá tải bệnh viện, y đức, đạo đức cầu thủ, bạo lực gia đình…) chưa được giải quyết kịp thời và triệt để.

 

4. Công tác tham mưu, chỉ đạo về văn hoá, văn nghệ thiếu tầm nhìn chiến lược, toàn diện, còn chạy theo sự vụ nên chưa đưa ra những giải pháp có tính “đột phá”, giải quyết căn bản những vấn đề bức xúc của hoạt động văn hoá - văn nghệ. Tư duy lý luận về văn hóa, văn nghệ còn lạc hậu, đổi mới chậm, do vậy có lúc, có nơi công tác định hướng chính trị chưa thấy hết tính đặc thù của văn hoá, văn nghệ, dẫn đến có biện pháp ấu trĩ, tả khuynh; lúng túng xử lý mối quan hệ kinh tế và văn hóa; chưa khơi dậy mọi tiềm lực xã hội cho phát triển văn hóa, văn nghệ và giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc. Công tác chỉ đạo có lúc thiếu kịp thời, thiếu sắc bén, thiếu tính thuyết phục, còn để xảy ra một số vụ việc vi phạm đến đường lối văn hoá, văn nghệ của Đảng. Chỉ đạo xây dựng đời sống văn hóa còn chạy theo thành tích, chưa kiên quyết, thiếu chiều sâu, ảnh hưởng đến việc hình thành nếp sống văn hóa lành mạnh trong xã hội.

 

5. Công tác tổ chức và cán bộ còn nhiều bất hợp lý. Mảng công tác khoa giáo với mảng tư tưởng và văn hoá nhiều lần tách ra, nhập vào không phải lúc nào cũng dựa trên những luận cứ khoa học đầy đủ, nhất là ở cấp tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương. Nhiều cán bộ tuyên giáo đào tạo thiếu hệ thống, hạn chế nhiều đến chất lượng tham mưu, nhất là ở cấp Trung ương. Chưa có chế độ, chính sách phù hợp để thu hút được cán bộ giỏi, cán bộ có năng lực về làm công tác tuyên giáo. Nhiều vụ ở Ban Tuyên giáo Trung ương cũng như nhiều Ban tuyên giáo ở cấp tỉnh, thành phố trong nhiều năm tuyển không đủ biên chế, hoặc có lấy đủ biên chế thì một số cán bộ trình độ rất hạn chế, khó phát triển trở thành những cán bộ giỏi phục vụ lâu dài. Nhiều người không muốn làm cán bộ tuyên giáo, không chỉ vì điều kiện hưởng thụ vật chất hạn chế mà còn do yếu tố tinh thần. Nhìn chung xã hội chưa tôn trọng và đánh giá cao người cán bộ tuyên giáo so với công sức mà họ cống hiến cho Đảng và nhân dân.

 

III. Một số bài học chủ yếu

 

- Bài học thứ nhất: Kiên định, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để nâng cao tính khoa học của công tác tuyên giáo.

 

Người làm công tác tuyên giáo phải kiên định bảo vệ những nguyên lý, luận điểm có giá trị bền vững, vận dụng sáng tạo vào những điều kiện cụ thể và không ngừng phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới. Phải thực hiện đúng các quan điểm, lý luận của Đảng là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong giáo dục, tuyên truyền, thẩm định, hướng dẫn, giám sát, kiểm tra... để đưa đường lối, chủ trương, chính sánh của Đảng vào cuộc sống. Đồng thời phải thường xuyên đổi mới tư duy trong công tác tham mưu. Nâng cao tính khoa học, đề xuất với Đảng những quan điểm, quyết sách mới trong lĩnh vực tuyên giáo, đáp ứng nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử, đặc biệt là trong giai đoạn đổi mới hiện nay.

 

- Bài học thứ hai: Bám sát thực tiễn đất nước và tình hình thế giới, dự báo xu hướng, phát hiện vấn đề, chủ động tham gia định hướng, giải quyết những vấn đề tư tưởng, tăng cường sự đoàn kết trong Đảng và sự đồng thuận xã hội.

 

Công tác tuyên giáo vừa là một khoa học, vừa là một nghệ thuật, bao gồm nhiều hoạt động phong phú, đa dạng, tác động vào nhiều đối tượng, trên nhiều địa bàn khác nhau. Trong mỗi thời kỳ cách mạng, lực lượng làm công tác tuyên giáo luôn bám sát thực tiễn đất nước và tình hình thế giới, đổi mới nội dung, phương thức tiến hành công tác, căn cứ vào nhu cầu cuộc sống, nắm chắc tình hình từng đối tượng, địa bàn cụ thể; phối hợp sử dụng và phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng công tác tuyên giáo; chủ động nắm bắt, đánh giá, dự báo xu thế diễn biến tình hình, tâm trạng của các tầng lớp nhân dân, kịp thời đề ra các biện pháp thực hiện có hiệu quả. Trong mọi hoàn cảnh, dù khó khăn hay thuận lợi, đơn giản hay phức tạp, thách thức hoặc thời cơ... Ngành Tuyên giáo chủ động tham gia định hướng, giải quyết những vấn đề tư tưởng, tăng cường sự đoàn kết trong Đảng và sự đồng thuận xã hội.

 

- Bài học thứ ba, huy động toàn bộ hệ thống chính trị làm công tác tuyên giáo. Các cấp uỷ đảng và chính quyền, đặc biệt là người đứng đầu phải quan tâm và trực tiếp chỉ đạo công tác tuyên giáo.

 

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta xác định, công tác tuyên giáo là một bộ phận đặc biệt quan trọng trong hoạt động của Đảng; là lĩnh vực tiên phong để xây dựng, bồi đắp nền tảng tư tưởng của Đảng, cơ sở chính trị vững chắc của chế độ. Tuyên truyền, giáo dục, động viên và tổ chức các tầng lớp nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn cách mạng để từng bước thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Công tác tuyên giáo phải là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, trong đó đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên giáo chuyên trách là lực lượng nòng cốt. Các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể... thường xuyên nâng cao nhận thức và trách nhiệm, đặc biệt là người đứng đầu phải quan tâm và trực tiếp chỉ đạo công tác tuyên giáo. Thực tiễn cho thấy, nơi nào người đứng đầu cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể... thực hiện đúng trách nhiệm của mình thì ở đó công tác tuyên giáo được tiến hành có chất lượng và hiệu quả cao.

 

- Bài học thứ tư: Nâng cao tính chiến đấu, chủ động phản bác kịp thời, sắc bén những luận điệu xuyên tạc, phủ định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

 

Mỗi bước tiến của cách mạng, nhất là sau những thắng lợi mang ý nghĩa lịch sử quan trọng, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị... lại ra sức chống phá ta một cách toàn diện; trong đó có phương thức tung ra những luận điệu xuyên tạc, phủ định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Những người làm công tác tuyên giáo phải tổ chức phản bác  những luận điệu xuyên tạc, phủ định, vu cáo đó. Bằng cơ sở khoa học thuyết phục và thực tiễn sinh động, vạch trần những âm mưu của chúng, để mọi tầng lớp nhân dân thấy được tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chính sách hợp lòng dân, ý Đảng, theo đúng quy luật phát triển trong từng giai đoạn cách mạng, đặc biệt là trong sự nghiệp đổi mới của Đảng. Nếu không vạch trần mọi âm mưu xấu xa của các thế lực thù địch, phản động, một bộ phận nhân dân do thiếu thông tin dễ hoang mang và giảm sút lòng tin. Chính vì vậy, đi đôi với việc giáo dục, truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng, công tác tuyên giáo phải thường xuyên nâng cao tính chiến đấu, chủ động  phản bác kịp thời, sắc bén những luận điệu xuyên tạc, phủ định, vu cáo của các thế lực thù địch, phản động để giữ vững trận địa tư tưởng, đem lại niềm tin cho nhân dân.

 

- Bài học thứ năm: Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ đội ngũ cán bộ tuyên giáo theo từng giai đoạn cách mạng, hiện đại hoá phương tiện tác nghiệp...

 

Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng từ cán bộ chiến lược, chuyên gia đầu ngành, đến cán bộ ở địa phương, cơ sở và đội ngũ trẻ kế cận. Chú trọng cán bộ cho từng lĩnh vực công tác tuyên giáo, kết hợp chặt chẽ việc đào tạo ở nhà trường với rèn luyện trong thực tiễn. Coi trọng rèn luyện cán bộ trong thực tiễn, là cơ sở hình thành bản lĩnh chính trị vững vàng. Mỗi cán bộ Ngành Tuyên giáo phải cố gắng phấn đấu nói đúng và hay, viết thạo, am hiểu lý luận và thực tiễn, lời nói đi đôi với việc làm... Là người tuyên truyền, hướng dẫn đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước hấp dẫn, người bạn gần gũi của nhân dân. Có cơ chế, chính sách phù hợp để thu hút được cán bộ có đủ năng lực, trình độ, tâm huyết với nghề nghiệp. Tạo mọi điều kiện để mỗi cán bộ, công chức, viên chức trong Ngành Tuyên giáo được hưởng lợi ích vật chất và tinh thần theo điều kiện của từng giai đoạn cách mạng.

 

Tăng cường cơ sở vật chất, hiện đại hoá các phương tiện làm việc, đặc biệt là công nghệ thông tin. Trong điều kiện khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ, các phương tiện thông tin, kỹ thuật hiện đại như phát thanh, truyền hình, internet, các loại hình báo chí… là cơ sở để công tác tuyên giáo có điều kiện tiến hành nhanh nhạy, kịp thời, hiệu quả. Công tác tuyên giáo phải được trang bị các phương tiện thiết yếu nói trên, nhằm đáp ứng hoạt động, chủ động thông tin trước yêu cầu mới.

 

PHẦN IV

 

Phương hướng nhiệm vụ công tác Tuyên giáp trong thời kỳ mới

 

1. Bối cảnh quốc tế và trong nước

 

1.1. Quốc tế

 

Hoà bình, hợp tác vẫn là xu hướng lớn của sự phát triển. Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế chi phối tất cả các quốc gia, tạo nên các thời cơ và thách thức cho mỗi nước, đặc biệt là các nước đang phát triển. Tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều rủi ro, bất trắc khó lường. Chiến tranh giữa các nước lớn ít có khả năng xảy ra, nhưng căng thẳng tôn giáo, dân tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can thiệp lật đổ, khủng bố quốc tế vẫn diễn ra nhiều nơi. Tranh chấp lãnh thổ, biển đảo tiếp tục diễn ra gay gắt; xuất hiện các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống có thể gây tác hại nghiêm trọng, trước hết là tội phạm công nghệ cao trên các lĩnh vực tài chính, tiền tệ, viễn thông, sinh học, môi trường.

 

Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, thu hút sự tham gia ngày càng nhiều quốc gia thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và nền kinh tế tri thức. Sau khủng hoảng, kinh tế thế giới đang phục hồi nhưng còn nhiều rủi ro, bất trắc. Quá trình cơ cấu lại kinh tế trên quy mô toàn cầu làm thay đổi tương quan lực lượng giữa các nhóm nước, giữa các trung tâm kinh tế. Phát triển bền vững trở thành đòi hỏi cấp thiết đối với tất cả các nước; cạnh tranh về kinh tế - thương mại, giành giật các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, công nghệ, nguồn vốn, nguồn nhân lực chất lượng cao… giữa các nước ngày càng gay gắt. Cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì dân sinh, dân chủ, tiến bộ xã hội tiếp tục phát triển. Phong trào cánh tả được mở rộng. Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cÓ dấu hiệu phục hồi và phát triển mặc dù còn nhiều khó khăn thách thức. Những vấn đề toàn cầu, cấp bách như biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, thiên tai dịch bệnh, … tiếp tục diễn biến phức tạp đòi hỏi sự phối hợp, hợp tác rộng rãi của cộng đồng quốc tế.

 

Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á tiếp tục là khu vực phát triển năng động, có vai trò và vị thế ngày càng lớn trên trường quốc tế. Tuy nhiên, ở những khu vực này vẫn tiềm ẩn nhiều điểm nóng, nhiều nguy cơ, nhân tố đe doạ hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển.

 

1.2. Trong nước

 

Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của gần 25 năm đổi mới đã tạo ra sức mạnh tổng hợp, thế và lực của nước ta lớn mạnh hơn nhiều so với trước. Việc ra khỏi tình trạng nước kém phát triển đã làm cho vị thế của Việt Nam tăng lên, chính trị - xã hội ổn định, khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố vững chắc, an ninh quốc phòng được giữ vững, quan hệ đối ngoại mở rộng, đa phương hoá, đa dạng hoá; đất nước đứng trước nhiều cơ hội lớn để đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, nước ta vẫn phải đối mặt với những thách thức, nguy cơ không thể xem thường. Chất lượng phát triển kinh tế - xã hội còn thấp, chưa bảo đảm sự hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường, giữa nâng cao đời sống vật chất với phát triển văn hoá, đạo đức tinh thần giữa các vùng miền, các tầng lớn nhân dân. Phân hoá, phân cực giàu nghèo có xu hướng ngày càng gia tăng. Trật tự an toàn xã hội có biểu hiện đáng lo ngại; tình hình thoái hoá, biến chất trong một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn nghiêm trọng. Các thế lực thù địch tăng cường hoạt động “diễn biến hoà bình”, chống phá ta vừa tinh vi, vừa trắng trợn trên các lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo; thiên tai, dịch bệnh, tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu diễn biến phức tạp… Đây là những thách thức, nguy cơ lớn đối với đất nước trong những năm tới.

 

Bối cảnh quốc tế và trong nước nói trên sẽ thường xuyên tác động đến tư tưởng cán bộ, đảng viên, nhân dân theo cả hai chiều thuận, nghịch, đặt ra trước công tác tuyên giáo những yêu cầu ngày càng cao, các nhiệm vụ ngày càng nặng nề.

 

2. Phương hướng công tác tuyên giáo trong thời kỳ mới (từ nay đến năm 2020)

 

2.1 Phương hướng chung: Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tuyên giáo phục vụ hiệu quả việc triển khai Nghị quyết Đại hội XI, XII của Đảng. Động viên, phát huy cao nhất sức mạnh của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, góp phần đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.

 

2.2 Một số phương hướng cụ thể:

 

-  Tham gia định hướng, nghiên cứu lý luận gắn chặt với tổng kết thực tiễn trong nước và thế giới. Khẳng định tính đúng đắn, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để phát triển đường lối đổi mới của Đảng. Giải đáp có sức thuyết phục những vấn đề lý luận và thực tiễn do công cuộc đổi mới đặt ra. Từ đó từng bước tiếp tục làm sáng tỏ lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

 

-  Đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục lý luận chính trị để truyền bá một cách rộng rãi, sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng, nhằm xây dựng thế giới quan và phương pháp luận khoa học cho cán bộ, đảng viên và đông đảo quần chúng nhân dân, tạo sự nhất trí cao trong Đảng, đồng thuận trong xã hội về cương lĩnh, đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước.

 

-  Tuyên truyền, động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tự giác, tích cực, sáng tạo thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, để nhân dân có niềm tin tất thắng vào sự nghiệp đổi mới của Đảng và chủ nghĩa xã hội. Nâng cao hiệu quả Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Tuyên truyền kiến thức về quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Nâng cao cảnh giác cách mạng, tiến hành kiên quyết, phối hợp đồng bộ, đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của chiến lược “diễn biến hoà bình” trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hoá, kinh tế, xã hội... ; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hoá. Phản bác kịp thời những luận điệu xuyên tạc, phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng của bọn phản động và các thế lực thù địch.

 

Đổi mới công tác tuyên truyền: tăng cường tính thuyết phục, hiệu quả, nâng cao tính chủ động và tính chiến đấu, tạo bằng được sự gắn bó với nhân dân và thực tiễn đất nước. Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước; phát hiện, nhân rộng điển hình, nhân tố mới; thực hiện phương châm “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”; đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.

 

-  Tiếp tục tham gia xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó đặc biệt coi trọng phát triển nền văn học, nghệ thuật thấm đậm tinh thần nhân văn, dân chủ; phát triển hệ thống báo chí, xuất bản theo hướng cách mạng, hiện đại. Bồi dưỡng các thế hệ con người Việt Nam phát triển toàn diện. Nghiên cứu và truyền bá rộng rãi những giá trị mới của con người Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với việc bảo vệ, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc; đồng thời tích cực triển khai cuộc đấu tranh chống sự lai căng, vọng ngoại, lệ thuộc nước ngoài; đặc biệt chú trọng công tác giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ về bản lĩnh chính trị, văn hóa của con người Việt Nam.

 

-  Động viên đội ngũ trí thức không ngừng phát triển, sáng tạo khoa học và công nghệ, đưa công nghệ tiên tiến vào sản xuất hàng hóa để nâng cao tính cạnh tranh ở trong và ngoài nước, thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển nhanh, mạnh, bền vững. Đào tạo, bồi dưỡng được một đội ngũ trí thức không chỉ đông đảo về số lượng, đồng bộ về cơ cấu mà còn phải bảo đảm về chất lượng – cả về trí tuệ và phẩm chất – đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

 

-  Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ tuyên giáo trên tất cả các lĩnh vực đáp ứng nhiệm vụ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đổi mới cơ chế chính sách đối với cán bộ chuyên trách công tác tuyên giáo, kiện toàn và tăng cường cơ quan tham mưu về công tác tuyên giáo các cấp, nhất là ở cấp Trung ương và các tỉnh, thành phố.

 

3. Một số nhiệm vụ và giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên giáo

 

3.1. Nghiên cứu khoa học, lý luận, tổng kết thực tiễn để góp phần cụ thể hoá và phát triển Cương lĩnh, đường lối đổi mới của Đảng.

 

- Làm rõ những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác – Lênin cần tiếp tục khẳng định và bảo vệ, những vấn đề cần được bổ sung và phát triển cho phù hợp với thực tiễn đất nước và thời đại.

 

- Tích cực nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và tham gia quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế hiện nay.

 

- Giải đáp có sức thuyết phục những vấn đề lý luận do thực tiễn đổi mới đặt ra, trong đó có các mối quan hệ cơ bản như: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế v.v…

 

- Từ những kết quả nghiên cứu trên, từng bước bổ sung, hoàn thiện, cụ thể hoá đường lối đổi mới của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước.

 

3.2. Đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy và học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

 

- Tiếp thu kết quả nghiên cứu mới về lý luận trong nước và thế giới; bám sát sự vận động của thực tiễn đất nước, trên cơ sở đó tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy và học tập lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong hệ thống giáo dục quốc dân, hệ thống trường chính trị - hành chính, hệ thống trường của các ngành, đoàn thể và các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện.

 

- Cải cách chu­ơng trình, xác định rõ mục tiêu đào tạo, bồi dư­ỡng, bảo đảm truyền thụ có hiệu quả kiến thức lý luận cơ bản, có hệ thống, đồng thời sát hợp với thực tiễn Việt Nam cho người học trong các loại hệ thông trường.

 

- Tích cực triển khai nhiệm vụ đào tạo, đào tạo lại, bồi d­ưỡng nâng cao trình độ khoa học, chính trị, phẩm chất đạo đức của giảng viên các bộ môn khoa học Mác - Lênin, t­ư tu­ởng Hồ Chí Minh, lý luận chính trị trong nhà tr­ường.

 

- Thay đổi cách đánh giá chất lư­ợng đào tạo, bảo đảm thực chất, chống chủ nghĩa hình thức và bệnh thành tích, từ đó hạn chế sự sa sút chất lư­ợng đào tạo các môn khoa học chính trị trong các trường đào tạo.

 

- Xây dựng thế giới quan và phương pháp luận khoa học cho cán bộ, đảng viên và đông đảo quần chúng nhân dân, tạo sự nhất trí cao trong Đảng, đồng thuận trong xã hội về cương lĩnh, đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước.

 

3.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về đường lối đổi mới của Đảng, tăng cường tính thuyết phục, hiệu quả, nâng cao tính chủ động và tính chiến đấu.

 

- Tích cực tuyên truyền, động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tự giác,  sáng tạo thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, để nhân dân có niềm tin tất thắng vào sự nghiệp đổi mới của Đảng và chủ nghĩa xã hội.

 

- Nâng cao hiệu quả Cuộc vận động, "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", đưa Cuộc vận động ngày càng đi vào chiều sâu, xuất hiện ngày càng nhiều những tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác. Cán bộ lãnh đạo các cấp phải là những tấm gương trong Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", lời nói gắn liền với việc làm, “học tập” phải đi đôi với “làm theo”.

 

- Tuyên truyền kiến thức về quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Nâng cao cảnh giác cách mạng, tiến hành kiên quyết, phối hợp đồng bộ, đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của chiến lược “diễn biến hoà bình” trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hoá, kinh tế, xã hội... ; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hoá.

 

- Phản bác kịp thời những luận điệu xuyên tạc, phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng của bọn phản động và các thế lực thù địch; làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần toàn xã hội.

 

- Công tác tuyên giáo cần nâng cao tính định hướng, tính chiến đấu, tính thuyết phục, tính hiệu quả. Phải thường xuyên bám sát thực tiễn, tăng cường tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân; chủ động nắm bắt, đánh giá, dự báo, kịp thời giải quyết những diễn biến tư tưởng, tâm trạng của nhân dân. Tập trung xử lý các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của nhân dân, nhất là những vấn đề liên quan đến nạn tham nhũng, lãng phí, quan liêu, mất dân chủ, thiếu kỷ cương, ức hiếp nhân dân của cán bộ, đảng viên.

 

- Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước; cổ vũ mọi tầng lớp nhân dân phát huy tính tự lực, tự cường, nỗ lực vượt qua mọi thử thách, phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế - xã hội. Tích cực thực hiện phong trào xoá đói, giảm nghèo và phấn đấu ngày càng có nhiều người giàu. Nâng cao đời sống văn hoá tinh thần, thực hiện phương châm “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”. Nhân rộng, tạo sức lan toả lớn các gương điển hình, nhân tố mới; giữ gìn những giá trị nhân văn cao đẹp trong cuộc sống.

 

3.4. Tiếp tục xây dựng, phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và con người Việt Nam trong giai đoạn mới.

 

- Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn mới, để văn hoá thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, yếu tố quyết định của sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước.

 

- Thực hiện tốt chiến lược phát triển văn hoá, văn học, nghệ thuật; xây dựng cơ chế, chính sách huy động sức mạnh văn hoá, văn nghệ tham gia củng cố, phát triển đạo đức xã hội; chỉ đạo đưa cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” đi vào chiều sâu, hiệu quả thiết thực.

 

- Phát triển báo chí, xuất bản phục vụ công tác tuyên truyền sâu rộng, kịp thời, có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bám sát nhiệm vụ công tác tư tưởng, tích cực tuyên truyền, cổ vũ thành tựu của công cuộc đổi mới. Tích cực tuyên truyền việc xây dựng, phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và con người Việt Nam trong giai đoạn mới.

 

- Nghiên cứu những vấn đề về con người Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng và khẳng định những giá trị mới trên cơ sở giữ gìn, phát huy, phát triển các giá trị truyền thống và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại.

 

- Xây dựng và thực hiện hệ giá trị của nhân cách con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, các chuẩn mực đạo đức – văn hoá phù hợp với từng đối tượng, triển khai sâu rộng nhiệm vụ xây dựng chuẩn mực đạo đức đối với các tầng lớp xã hội.

 

- Kiên trì tổ chức cuộc đấu tranh khắc phục sự thoái hoá biến chất, những biểu hiện tiêu cực trong lối sống, đạo đức của cán bộ, đảng viên và quần chúng; đồng thời tích cực chống sự lai căng, vọng ngoại, lệ thuộc nước ngoài về văn hoá; đặc biệt chú trọng công tác giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ về bản lĩnh chính trị, văn hóa của con người Việt Nam.

 

3.5. Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh, đáp ứng yêu cầu quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

 

Cùng với toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thực hiện tốt nghị quyết Trung ương 7 (khoá X) “Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, trong đó Ngành Tuyên giáo tập trung làm tốt một số nhiệm vụ sau đây:

 

-  Tham gia xây dựng và triển khai cải cách giáo dục nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo đại học và sau đại học; đưa cán bộ, học sinh, sinh viên có đạo đức và triển vọng đi đào tạo ở các nước phát triển; đa dạng hoá các loại hình đào tạo, bồi dưỡng ở trong và ngoài nước; gắn công tác đào tạo với nghiên cứu khoa học và sản xuất kinh doanh... để có một đội ngũ trí thức đông về số lượng, mạnh về chất lượng, phục vụ tốt quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

 

- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng của Đảng và Nhà nước khẩn trương xây dựng và ban hành quy chế dân chủ trong hoạt động khoa học và công nghệ, nghiên cứu lý luận, giáo dục và đào tạo, văn hoá và văn nghệ; bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để trí thức tự khẳng định, phát triển, cống hiến và được xã hội tôn vinh.

 

- Xây dựng cơ chế, chính sách thiết thực để trọng dụng, tôn vinh những trí thức phát triển bằng chính phẩm chất, tài năng và những kết quả cống hiến của mình cho đất nước.

 

- Bồi dưỡng lòng yêu nước và lý tưởng cách mạng để trí thức nhận rõ vinh dự và bổn phận trước Tổ quốc và dân tộc, không ngừng phấn đấu nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực chuyên môn, đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.

 

3.6. Kiện toàn tổ chức, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên giáo; đẩy nhanh quá trình hiện đại hoá hoạt động tuyên giáo.

 

- Kiện toàn hệ thống tổ chức Ngành Tuyên giáo từ Trung ương đến cơ sở. Cơ quan tuyên giáo phải hoàn thiện bộ máy, đủ biên chế để hoàn thành tốt chức năng tham mưu, đồng thời là cơ quan chuyên môn, nghiệp vụ về công tác tuyên giáo giúp việc cho cấp uỷ.

 

- Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tuyên giáo. Có chương trình học tập bắt buộc đối với cán bộ tham mưu, nghiệp vụ dài hạn và ngắn hạn. Đồng thời khuyến khích, có cơ chế tạo điều kiện cho cán bộ học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phấn đấu có các chức danh trong khoa học.

 

- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tuyên giáo gồm cán bộ chiến lược, chuyên gia đầu ngành, cán bộ ở địa phương, cơ sở và đội ngũ trẻ kế cận; chú trọng cán bộ cho từng lĩnh vực công tác tuyên giáo; kết hợp chặt chẽ việc đào tạo ở nhà trường với rèn luyện trong thực tiễn. Coi trọng rèn luyện cán bộ trong thực tiễn, là cơ sở hình thành bản lĩnh chính trị vững vàng, có hiểu biết thực tiễn, có năng lực tổng kết và giải quyết những vấn đề do thực tiễn cuộc sống đặt ra.

 

- Mỗi cán bộ Ngành Tuyên giáo phải cố gắng phấn đấu nói đúng và hay, viết thạo, am hiểu lý luận và thực tiễn, lời nói đi đôi với việc làm...  Là người cán bộ tham mưu giỏi, có chuyên môn, nghiệp vụ cao; người tuyên truyền, hướng dẫn đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước có sức thuyết phục, người bạn gần gũi của nhân dân.

 

- Kiến nghị Đảng và Nhà nước đổi mới cơ chế, chính sách phù hợp để thu hút được cán bộ có đủ năng lực, trình độ, tâm huyết với nghề nghiệp; tạo mọi điều kiện để mỗi cán bộ, công chức, viên chức trong Ngành Tuyên giáo được hưởng đầy đủ lợi ích vật chất, tinh thần tương xứng với giá trị từ kết quả lao động cần cù và sáng tạo của mình.

 

- Xây dựng cơ sở vật chất, trang bị phương tiện kỹ thuật hiện đại, nhất là công nghệ thông tin, là những yếu tố cần thiết để công tác tuyên giáo được tiến hành  thuận tiện, mang lại chất lượng và hiệu quả trong thời kỳ toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế hiện nay.

 

3.7. Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các cấp, các ngành đối với công tác tuyên giáo.

 

- Cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các cấp, các ngành phải thường xuyên nâng cao nhận thức và trách nhiệm đối với công tác tuyên giáo. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các cấp, các ngành phải quan tâm chỉ đạo công tác tuyên giáo mà trước hết là tuyên truyền, triển khai, quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, trong đó có các chỉ thị, nghị quyết về công tác tuyên giáo. Làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân thấy rõ cơ sở khoa học, lý luận, thực tiễn của các mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra. Từ đó, người học thống nhất cao với chủ trương, đường lối của Đảng và cùng quyết tâm thực hiện trong cuộc sống.

 

- Xây dựng và thực hiện có nền nếp các quy chế phối hợp trong công tác tuyên giáo giữa cấp ủy, chính quyền và các đoàn thể cùng cấp. Đó là cơ sở để đánh giá cơ quan, tổ chức nào làm tốt, nơi nào còn nhiều yếu kém trong công tác tuyên giáo của mỗi thời kỳ.

 

- Định kỳ tổ chức các cuộc hội nghị, hội thảo trao đổi kinh nghiệm của các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể trong việc thực hiện vai trò, vị trí của từng cơ quan trong công tác tuyên giáo. Qua đó, biểu dương, khen thưởng những cá nhân, tập thể có nhiều thành tích tốt, đồng thời phê bình những cá nhân, tập thể chưa hoàn thành nhiệm vụ được giao.

 

- Để nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các cấp, các ngành; các đồng chí trong cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các cấp, các ngành phải nghiên cứu sâu sắc các chỉ thị, nghị quyết về công tác tuyên giáo của Đảng; đồng thời phải có những giải pháp để triển khai chỉ thị, nghị quyết của Đảng vào cuộc sống một cách có hiệu quả nhất.

 

PHẦN V

 

Một số tư liệu về tổ chức hoạt động  của Ngành Tuyên giáo

 

1. Các quyết định và tên gọi của cơ quan tham mưu của Trung ương Đảng về công tác tuyên giáo

 

* Thời kỳ từ năm 1930 đến năm 1945

 

- Từ năm 1930 đến tháng 8 năm 1945, cơ quan tham mưu của Trung ương Đảng về công tác tư tưởng – văn hoá gọi là Ban Cổ động và Tuyên truyền của Đảng.

 

- Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, ngày 7-9-1945, Bộ Tuyên truyền được thành lập. Tiếp đó, ngay trong tháng 9-1945, các cơ quan báo chí cách mạng được thành lập: Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam, Báo Cờ giải phóng, Báo Lao động, Việt Nam Thông tấn xã...

 

- Tháng 3-1949, Ban Thường vụ Trung ương ra quyết nghị về việc thành lập Ban Văn hoá Trung ương.

 

- Ngày 14-9-1950, Trung ương ban hành Quyết định số 55-QĐ-TW về tổ chức Ban tuyên truyền và Ban giáo dục Trung ương Đảng

 

- Ngày 16-4-1951, Trung ương ban hành Quyết định số 09-QĐ-TW thành lập Ban Tuyên huấn.

 

- Ngày 22-5-1957, Ban Bí thư ban hành Quyết định số 13-QĐ-TW về việc thành lập Tiểu ban văn nghệ Trung ương và đảng đoàn các ngành văn học nghệ thuật.

 

- Ngày 24-5-1957, Ban Bí thư ban hành Quyết định số 14-QĐ-TW về việc thành lập Tiểu ban khoa học giáo dục Trung ương và chấn chỉnh sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác giáo dục.

 

- Ngày 23-8-1958, Ban Bí thư có Nghị quyết số 50-QĐ-TW về việc thành lập Ban Văn hóa giáo dục Trung ương, gọi tắt Ban Văn giáo Trung ương.

 

- Ngày 01-12-1959, Ban Bí thư có Quyết định số 91-QĐ-TW về việc hợp nhất hai Ban Tuyên huấn và Ban Văn giáo thành Ban Tuyên huấn văn giáo, gọi tắt Ban Tuyên giáo Trung ương.

 

- Ngày 30-01-1968, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 1584-NQ-TW về tách Ban Tuyên giáo Trung ương thành hai Ban là Ban Tuyên huấn Trung ương và Ban Khoa học giáo dục Trung ương (gọi tắt là Ban Khoa giáo Trung ương).

 

- Tháng 8-1980, Bộ Chính trị thông báo thành lập Ban Văn hóa - Văn nghệ.

 

- Ngày 11-4-1989, Bộ Chính trị có Quyết định số 85-NQ-TW thống nhất Ban Văn hóa - Văn nghệ Trung ương với Ban Tuyên huấn Trung ương thành Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương.

 

- Ngày 28-8-2007, Bộ Chính trị có Quyết định số 80-QĐ-TW nhập Ban Tư tưởng  - Văn hóa Trung ương và Ban Khoa giáo Trung ương thành Ban Tuyên giáo Trung ương.

 

2. Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức, bộ máy của Ban Tuyên giáo Trung ương hiện nay

 

Ngày 28 tháng 8 năm 2007, Bộ Chính trị đã có Quyết định số 80-QĐ-TW về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Ban Tuyên giáo Trung ương. Quyết định nêu rõ:

 

Điều 1. Chức năng của Ban Tuyên giáo Trung ương

 

Ban Tuyên giáo Trung ương là cơ quan tham mưu của Ban Chấp hành Trung ương, trực tiếp và thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, về chủ trương, quan điểm và chính sách của Đảng trong lĩnh vực tuyên truyền, báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ, khoa học – công nghệ, giáo dục – đào tạo và một số lĩnh vực xã hội; đồng thời là cơ quan chuyên môn – nghiệp vụ về các lĩnh vực công tác này của Đảng.

 

Điều 2. Nhiệm vụ của Ban Tuyên giáo Trung ương

 

1. Nghiên cứu, đề xuất

 

- Chủ trì, phối hợp nghiên cứu, tham mưu về chủ trương, quan điểm, chính sách và giải pháp của Đảng thuộc lĩnh vực tuyên giáo. Tham gia chuẩn bị dự thảo nghị quyết đại hội Đảng; các nghị quyết, chỉ thị và quyết định của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thuộc lĩnh vực tuyên giáo.

 

- Chủ trì, phối hợp nghiên cứu, cụ thể hóa Cương lĩnh, nghị quyết, chỉ thị của Đảng thuộc lĩnh vực tuyên giáo; tham mưu về nghiên cứu, phát triển lý luận chính trị, tổ chức tổng kết thực tiễn, nghiên cứu một số đề án thuộc lĩnh vực tuyên giáo. Tham gia ý kiến với các cơ quan nhà nước trong việc thể chế hóa và thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quyết định của Đảng thuộc lĩnh vực tuyên giáo.

 

- Nghiên cứu tình hình tư tưởng trong Đảng và trong xã hội, đề xuất phương hướng, nhiệm vụ, nội dung, giải pháp xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng.

 

- Nghiên cứu và tham gia đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác tuyên giáo các cấp, các ngành, các đoàn thể.

 

- Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp những âm mưu, thủ đoạn chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ ta của các thế lực thù địch, kịp thời đề xuất đối sách và biện pháp chống các quan điểm, tư tưởng sai trái, thù địch.

 

2. Thẩm định

 

Thẩm định các đề án, văn bản liên quan đến chủ trương, chính sách thuộc lĩnh vực tuyên giáo của các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận, tổ chức đoàn thể và các địa phương trước khi trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

 

3. Hướng dẫn, kiểm tra

 

- Chủ trì, phối hợp hướng dẫn, kiểm tra việc tổ chức học tập, quán triệt các nghị quyết, chỉ thị, quyết định của Đảng đối với các tỉnh ủy, thành ủy, các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương.

 

- Chủ trì, phối hợp hướng dẫn, kiểm tra việc tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quyết định của Đảng được Bộ Chính trị, Ban Bí thư phân công.

 

- Hướng dẫn, kiểm tra các tỉnh ủy, thành ủy và đảng ủy trực thuộc Trung ương về nội dung đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên và quần chúng ngoài đối tượng thuộc hệ thống trường chính trị - hành chính của Trung ương, của các tỉnh ủy, thành ủy; kiểm tra về phương hướng chính trị, tư tưởng trong giảng dạy lý luận chính trị, khoa học xã hội – nhân văn trong hệ thống trường chính trị - hành chính, hệ thống giáo dục quốc dân và hệ thống các trường ngành, đoàn thể.

 

- Hướng dẫn, kiểm tra, định hướng nội dung tuyên truyền và bồi dưỡng nghiệp vụ hoạt động cho hệ thống báo cáo viên, tuyên truyền viên, hệ thống cộng tác viên dư luận xã hội từ Trung ương đến cơ sở.

 

- Hướng dẫn, kiểm tra, định hướng chính trị, tư tưởng trong hoạt động của các cơ quan báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ, các cơ quan thông tin, tuyên truyền đối ngoại ở Trung ương và địa phương. Khi cần thiết chủ trì hoặc phối hợp kiểm tra về mặt quan điểm chính trị, tư tưởng các công trình nghiên cứu khoa học; các tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí, xuất bản…

 

- Hướng dẫn, kiểm tra việc tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quyết định của Đảng về lĩnh vực tư tưởng, lý luận, báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ, khoa học – công nghệ, môi trường, giáo dục – đào tạo, y tế, thể dục – thể thao…

 

- Tổ chức biên soạn, phối hợp phát hành các tài liệu nội bộ phục vụ học tập nghị quyết, chỉ thị, quyết định của Đảng và tài liệu phổ biến kiến thức về giáo dục lý luận chính trị…

 

4. Tham gia công tác xây dựng tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên giáo

 

- Phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và biên chế cho ban tuyên giáo các cấp.

 

- Tham gia với các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương về phương hướng công tác xây dựng Đảng thuộc lĩnh vực tuyên giáo; về tổ chức bộ máy, về quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển, khen thưởng, miễn nhiệm, kỷ luật đối với đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực tuyên giáo theo danh mục phân cấp quản lý của Trung ương.

 

5. Thông tin đối ngoại và hợp tác quốc tế

 

- Mở rộng tuyên truyền thông tin đối ngoại.

 

- Tăng cường hợp tác quốc tế về lĩnh vực tuyên giáo đối với các đảng cộng sản, đảng công nhân và một số đảng cầm quyền trên thế giới.

 

6. Thực hiện một số nhiệm vụ do Bộ Chính trị, Ban Bí thư ủy quyền

 

- Chủ trì, phối hợp đề xuất chủ trương, kế hoạch nghiên cứu, chỉ đạo, quản lý công tác nghiên cứu lý luận và giáo dục lý luận chính trị. Chủ trì, phối hợp chỉ đạo nội dung giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hệ thống giáo dục quốc dân, hệ thống trường chính trị - hành chính, hệ thống trường của các ngành, đoàn thể và các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp quận, huyện.

 

- Chủ trì chỉ đạo định hướng chính trị, tư tưởng trong hoạt động của các cơ quan báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ, các cơ quan thông tin, tuyên truyền đối ngoại, các hội văn học – nghệ thuật, Hội Nhà báo, Hội Xuất bản, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật. Phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương trong công tác tổ chức, bộ máy và công tác cán bộ của các cơ quan, đơn vị trên.

 

- Nghiên cứu và tham gia xây dựng chủ trương, chính sách phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, quản lý và đãi ngộ nhân tài.

 

- Xây dựng kế hoạch và quản lý các đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của các ban Đảng Trung ương.

 

- Được Bộ Chính trị, Ban Bí thư phân công thường trực và tham gia một số ban chỉ đạo Trung ương.

 

- Thực hiện những công việc khác do Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao.

 

Điều 3. Tổ chức bộ máy của Ban Tuyên giáo Trung ương

 

1. Lãnh đạo Ban Tuyên giáo Trung ương

 

Trưởng ban và các phó trưởng ban, trong đó có một số phó trưởng ban kiêm nhiệm.

 

2. Cơ cấu tổ chức của Ban gồm các vụ và đơn vị sau đây:

 

1) Vụ Lý luận chính trị

 

2) Vụ Tuyên truyền

 

3) Vụ Báo chí – Xuất bản

 

4) Vụ Văn hóa – Văn nghệ

 

5) Vụ Khoa học và Công nghệ, Môi trường

 

6) Vụ Giáo dục và Đào tạo, Dạy nghề

 

7) Vụ Các vấn đề xã hội

 

8) Vụ Thông tin đối ngoại và Hợp tác quốc tế

 

9) Vụ Tổng hợp

 

10) Vụ Tổ chức và Cán bộ

 

11) Viện Nghiên cứu dư luận xã hội

 

12) Trung tâm Thông tin công tác tuyên giáo

 

13) Trung tâm Nghiên cứu khoa học, nghiệp vụ và tư liệu

 

14) Tạp chí Tuyên giáo

 

15) Cơ quan thường trực tại Thành phố Hồ Chí Minh

 

16) Cơ quan thường trực tại Thành phố Đà Nẵng

 

17) Văn phòng

 

18) Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam

 

19) Tạp chí Thông tin đối ngoại

 

Tiếp đó, ngày 08-01-2008, Ban Tuyên giáo Trung ương đã ra Quyết định số 446-QĐ-BTGTW về việc thành lập Văn phòng Hội đồng lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương, nhiệm kỳ Đại hội X.