Biểu trưng của truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”

07:55, 27/07/2010

Cách đây 63 năm, ngày 27/7/1947, bên cây đa xóm Bàn Cờ, xã Hùng Sơn, Đại Từ đã diễn ra lễ công bố Ngày Thương binh, liệt sĩ toàn quốc. Từ đây đất nước ta đã có một ngày chính thức để tưởng nhớ ghi công, đền ơn đáp nghĩa thương binh liệt sĩ. Khu di tích 27-7 ở xóm Bàn Cờ đã trở thành biểu trưng truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt

 

Sau Cách mạng tháng tám 1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời nhưng người Pháp đã quay lại Đông Dương. Khi vào thay thế quân đội Tưởng Giới Thạch ở Bắc Bộ, quân đội Pháp và quân đội ta đã có những vụ đụng độ với nhau với những thiệt hại về tính mạng cho những người lính, đặc biệt là về phía Việt Nam.

 

Để góp phần xoa dịu nỗi đau mất mát của gia đình của những người đã chết, Chính quyền Việt Nam đã thực hiện nhiều hình thức để bù đắp những thiệt hại này. Một trong những hình thức đó là vận động thành lập một tổ chức có tên gọi là “Hội giúp binh sĩ tử nạn”.

 

Đầu năm 1946, “Hội giúp binh sĩ tử nạn” (sau đổi tên “Hội giúp binh sĩ bị thương”) được thành lập ở Thuận Hoá (Bình Trị Thiên) ở Hà Nội và một số nơi khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh được mời làm hội trưởng danh dự của hội này.

 

Chiều ngày 28 tháng 5 năm 1946, Hội “Giúp binh sĩ bị nạn” tổ chức một cuộc nói chuyện quan trọng tại Nhà hát lớn thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh đã tới dự. Và chiều ngày 11 rháng 7 năm 1946, tại Nhà hát này đã có một buổi quyên góp quần áo, giầy mũ cho binh lính ở ngoài chiến trường, mở đầu cuộc vận động “mùa đông chiến sĩ”. Tại đây, Hồ Chí Minh đã cởi chiếc áo rét đang mặc để tặng binh sĩ.

 

Ngày 19 tháng 12 năm 1946, Hà Nội chính thức phát động chiến tranh với Pháp, chiến tranh lan rộng ra nhiều vùng. Số người bị thương và chết tăng lên nhanh chóng do sự chênh lệch về trang bị vũ khí cũng như những chiến thuật chiến đấu. Đời sống của binh lính lúc đó, nhất là những binh sĩ bị thương gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn do tình cảnh khó khắn của Chính phủ Việt Nam bấy giờ.

 

Trước yêu cầu đó, cùng với việc kêu gọi giúp đỡ thương binh gia đình tử sĩ, ngày 16 tháng 2 năm 1947 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 20/SL “Quy định chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất tử sĩ”. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên khẳng định vị trí quan trọng của công tác thương binh liệt sĩ đối với cuộc chiến tranh của Việt Nam.

 

Để chỉ đạo công tác thương binh tử sĩ trong cả nước, ngày 26 tháng 2 năm 1947, Phòng thương binh thuộc Chính trị Cục, quân đội quốc gia Việt Nam được thành lập. Đầu tháng 7 năm 1947 Ban Vận động tổ chức “Ngày Thương binh toàn quốc” cũng được thành lập.

 

Chính phủ và Bác Hồ vẫn quyết định nhiều chủ trương, chính sách về thương binh-liệt sỹ. Tháng 6/1947, Bác Hồ đề nghị Chính phủ chọn một ngày trong năm là Ngày Thương binh để “đồng bào có dịp tỏ lòng hiếu nghĩa và yêu mến thương binh”. Đầu tháng 7, Ban vận động tổ chức Ngày Thương binh toàn quốc được thành lập, trong cuộc họp tại xã Phú Thịnh (huyện Đại Từ), đã xác định rõ mục đích, yêu cầu và chọn thời gian cụ thể. Ông Lê Tất Đắc, Cục phó Cục Chính trị đề xuất: Ngày 27 tháng 7 là thích hợp vì có sự trùng hợp của nhiều con số 7 dễ nhớ. Ông liền ứng khẩu thành thơ: “Dù ai đi đông, đi tây/Hai bảy tháng Bảy nhớ ngày Thương binh”. Được mọi người tán đồng, “ngày tốt” được báo cáo lên Bác Hồ, và được Người có thư gửi Ban Tổ chức.

 

Ngày 27 tháng 7 năm 1947, “Ngày thương binh toàn quốc”, mở đầu bằng cuộc mít tinh quan trọng đã được diễn ra tại xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ. Tại đây Ban tổ chức đã cử đại diện Chính trị Cục Quân đội Quốc gia Việt Nam trịnh trọng đọc thư của Hồ Chí Minh gửi cho Ban Thường trực của Ban Tổ chức ngày thương binh toàn quốc. Bác cũng đã gửi tặng một chiếc áo lụa, một tháng lương và một bữa ăn của nhân viên trong Phủ Chủ tịch.

 

Trong thư Người viết  “Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp, cha mẹ, anh em, vợ con, thân thích, họ hàng ta bị đe doạ, của cải, ruộng nương, nhà cửa, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập, ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù, để giữ gìn đất nước cho chúng ta? Đó là những chiến sĩ mà nay một số thành ra thương binh”. Trong thư cũng nhấn mạnh “Thương binh là những người đã hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào, vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào mà các đồng chí đó bị ốm yếu”. “Vì vậy, Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”.

 

Tiếp đó, nhân ngày 27 tháng 7 năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có lời kêu gọi: “Khi nạn ngoại xâm ào ạt đến, nó như một trận lụt to. Nó đe dọa tràn ngập cả non sông Tổ quốc. Nó đe dọa cuốn trôi cả tính mệnh, tài sản, chìm đắm cả bố mẹ, vợ con của nhân dân ta. Trước cơn nguy hiểm ấy, số đông thanh niên yêu quý của nước ta đã dũng cảm xông ra mặt trận. Họ quyết tâm đem xương máu của họ đắp thành một bức tường đồng, một con đê vững để ngăn cản nạn ngoại xâm tràn ngập Tổ quốc, làm hại đồng bào. Họ quyết hy sinh tính mệnh để giữ tính mệnh đồng bào. Họ quyết hy sinh gia đình và tài sản họ để bảo vệ gia đình và tài sản đồng bào. Họ quyết liều chết chống địch để cho Tổ quốc và đồng bào sống. Họ là những chiến sĩ anh dũng của chúng ta. Trong đó có người đã bỏ lại một phần thân thể ở mặt trận, có người đã bỏ mình ở chiến trường. Đó là thương binh, đó là tử sĩ...”

 

Từ đó, đến ngày 27 tháng 7 hàng năm, Chủ tịch  Hồ Chí Minh đều gửi thư thăm hỏi, động viên các thương binh, gia đình liệt sĩ và nhắc nhở mọi người phải biết ơn và hết lòng giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ. Từ năm 1947, ngày Thương binh được tổ chức thường kỳ. Năm nào vào dịp này, Bác cũng có thư và quà gửi cho các thương binh và các gia đình liệt sĩ.

 

Tháng 7 năm 1954 sau trận Điện Biên Phủ với thắng lợi to lớn kèm theo thương vong nặng nề, Đảng ta đặc biệt quan tâm giải quyết vấn đề binh sĩ, gia đình liệt sĩ và công tác thương binh. Và từ năm 1955, ngày 27 tháng 7 ngày Thương binh được đổi thành ngày Thương binh, liệt sĩ.