Với nhân sinh quan rộng mở, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: Người đời không phải là thánh thần, không ai tránh khỏi khuyết điểm, điều quan trọng là phải mạnh dạn nhận khuyết điểm và quyết tâm sửa chữa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tự phê bình và phê bình là thứ "vũ khí thần diệu" để Đảng thường xuyên trong sạch, vững mạnh.
Người ví việc che giấu khuyết điểm giống như "giấu giếm tật bệnh trong mình, không dám uống thuốc, để bệnh ngày càng nặng thêm, nguy đến tính mạng", bởi vậy "thang thuốc hay nhất là tự phê bình và phê bình", trong đó phải phê bình mình trước rồi phê bình người sau, như người xưa đã dạy: "Tiên trách kỷ, hậu trách nhân".
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ mục đích của phê bình là nhằm tăng cường sức mạnh đoàn kết của Đảng: "Muốn đoàn kết chặt chẽ phải thật thà tự phê bình, thành khẩn phê bình đồng chí và những người xung quanh, phê bình, tự phê bình để cùng nhau tiến bộ, để đi đến càng đoàn kết". Để đạt được mục đích đó thì phê bình và tự phê bình phải được thực hiện một cách có văn hóa. Thái độ văn hóa trong tự phê bình và phê bình là thành khẩn, trung thực và xây dựng. Mạnh dạn công khai tự phê bình, có khuyết điểm gì nói bằng hết cho dù đó là việc làm khó khăn, đau đớn vì thừa nhận cái sai, cái dốt, cái kém của mình là sợ mất thể diện, uy tín, địa vị. Khi được người khác phê bình phải vui vẻ tiếp thu với thái độ thực sự cầu thị chứ không phải chỉ tiếp nhận lỗi qua loa hoặc tìm cách bao biện cho khuyết điểm của mình rồi lại "chứng nào tật nấy". Khi phê bình người khác phải thành khẩn, đúng mực, có sao nói vậy, không nên "ít xuýt ra nhiều". Phê bình có văn hóa là phê bình có tính xây dựng, không lợi dụng phê bình để bới móc, nói xấu lẫn nhau, không phê bình lung tung, hồ đồ, vô trách nhiệm: "Phê bình mình cũng như phê bình người phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt". Phê bình không chỉ dừng lại ở việc vạch ra khuyết điểm mà còn phải đưa ra biện pháp sửa chữa. Thái độ đúng đắn trong phê bình mà Hồ Chí Minh nêu ra là "lý lẽ phân minh, nghĩa tình đầy đủ". Phê bình phải sáng suốt, không cực đoan nhưng cũng không xuê xoa vì nếu thiếu kiên quyết hoặc thỏa hiệp với những sai trái thì sẽ đánh mất niềm tin vào lẽ phải, đánh đồng tốt và xấu. Khi phê bình phải thực sự khách quan, công tâm chứ không phải "yêu nên tốt, ghét nên xấu", để dẫn tới tình trạng cùng phe cánh thì bao che, không cùng phe cánh thì bới móc.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Những người có thói hư tật xấu, trừ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời". Phê bình chính là để giúp người khác tiến bộ, vì vậy khi phê bình phải có tâm trong sáng, có tấm lòng bao dung biết lắng nghe những ý kiến khác biệt với mình và tôn trọng nhân cách người khác. Phê bình là để cho người ta nhận thấy khuyết điểm để sửa chữa chứ không phải chỉ muốn áp đặt ý kiến của mình. Khi phê bình phải tìm hiểu kỹ nguyên nhân mắc khuyết điểm để đưa ra cách sửa chữa. Tuyệt đối tránh nghi kỵ, định kiến, cố chấp...
Tự phê bình phải xuất phát từ tình đồng chí yêu thương lẫn nhau. Càng yêu thương thì càng phải thẳng thắn phê bình, có như vậy mới thực sự giúp nhau tiến bộ. Trong tình đồng chí thương yêu thì phê bình chính là sự tiếp sức cho đồng chí của mình sau một lần vấp ngã. Tránh thái độ đối với những người mắc sai lầm, khuyết điểm như đối với "hổ mang thuồng luồng" hoặc sử dụng phê bình như là những thủ đoạn, tiểu xảo để "dìm" nhau, làm mất uy tín của nhau.
Phê bình phải được thực hiện một cách dân chủ, công khai. Muốn dân chủ tốt thì cán bộ phải gương mẫu tự phê bình và phê bình. Thực hiện dân chủ trong phê bình tốt nhất là bằng phương pháp tác động ba chiều từ trên xuống, từ dưới lên, từ ngoài (Đảng) vào: "Cấp trên phê bình, chưa đủ. Đồng chí, đồng sự phê bình, chưa đủ. Phải hoan nghênh quần chúng phê bình nữa, thì sự phê bình mới hoàn toàn". Phê bình phải công khai, tránh thái độ "trước mặt không nói, soi mói sau lưng"... Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng xác định rõ đối tượng của phê bình "là công việc chứ không phải là người" để loại trừ những thái độ thù hận, trả đũa hay mặc cảm, đố kỵ.
Tự phê bình và phê bình còn được Chủ tịch Hồ Chí Minh coi là thứ "vũ khí thần diệu" để Đảng thường xuyên trong sạch, vững mạnh. Muốn sử dụng được thứ "vũ khí" này thì cần phải nắm vững kỹ thuật và cao hơn nữa là phải có nghệ thuật. Phương pháp và nghệ thuật phê bình thể hiện ở quan điểm biện chứng trong sự nhìn nhận, đánh giá con người (tức là nhìn nhận con người trong sự vận động và phát triển), biết phối hợp một cách hài hòa giữa tình và lý trong hành vi và thái độ ứng xử giữa con người với con người; có khả năng kết hợp giữa cái riêng, cá thể với cái chung, tập thể, xã hội; biết vận dụng quy luật đấu tranh giữa các mặt đối lập đúng - sai, tốt - xấu.
Phương pháp và nghệ thuật phê bình thể hiện từ việc bảo ban, giúp đỡ, giáo dục, thuyết phục, cảm hóa cho đến đấu tranh phê phán, khi cần mềm dẻo, lúc lại phải kiên quyết. Phương pháp và nghệ thuật ở đây còn phải thể hiện trong việc tác động vào ý thức tự giác của con người để bản thân họ tự nhận thấy khuyết điểm mà tự giác sửa chữa. Như Hồ Chí Minh từng nói: "Ta phải biết cách phê bình sáng suốt, khôn khéo, như chiếu tấm gương cho mọi người soi thấu những khuyết điểm của mình, để tự mình sửa chữa". Khổng Tử xưa có câu: "Kỳ sở bất dục, vật thí ư nhân" (Điều gì không muốn người khác làm với mình thì cũng đừng làm với người). Khi bản thân mình không muốn bị chỉ trích, miệt thị thì cũng đừng làm như vậy với đồng chí của mình. Phê bình phải đi đôi với khen ngợi vì nếu chỉ phê bình sẽ sinh ra bi quan, chán nản.
Hiện nay, bên cạnh một số ít cán bộ, đảng viên mạnh dạn tự phê bình và phê bình thì thái độ phổ biến vẫn là né tránh hoặc qua loa, hình thức và thường có xu hướng đổ lỗi cho sự hạn chế về nhận thức. Nhiều người vi phạm nghiêm trọng làm thất thoát tài sản lớn của Nhà nước cũng chỉ nhận khuyết điểm là hạn chế về nhận thức. Những thái độ "trông trước ngó sau" nghe ngóng xem người khác nói gì rồi hùa theo, đón ý cấp trên để phê bình cho "trúng"... vẫn thường thấy ở các buổi sinh hoạt. Nguyên nhân là vì người thì sợ ảnh hưởng đến việc thăng quan tiến chức, đến quyền lợi kinh tế; người thì sợ phê bình người khác rồi họ lại sẽ phanh phui những khuyết điểm của mình; một số thì chủ trương "dĩ hòa vi quý", "mũ ni che tai", "ngậm miệng ăn tiền"; có người thì sợ trù dập nên nhẫn nhục, chịu đựng, an phận, thủ tiêu đấu tranh...
Một số phần tử cơ hội khác lợi dụng phê bình để công kích những người mình không ưa, kéo bè, kéo cánh để "giải quyết", "thanh toán", "hạ bệ" nhau gây ra mất đoàn kết nội bộ. Nhìn chung, hiện nay công tác phê bình, tự phê bình vẫn còn trong tình trạng hình thức, "mưa phùn, gió nhẹ" nên rất ít hiệu quả. Điều này lý giải vì sao trong những năm qua, rất nhiều vụ việc tiêu cực, tham nhũng xảy ra nhưng ít được phát hiện trong quá trình tự phê bình và phê bình ở các cấp ủy đảng cơ sở mà chủ yếu do quần chúng tố giác, do các cơ quan nghiệp vụ và báo chí phanh phui.
Đảng ta đã nhận định: Tình trạng nể nang, né tránh, không dám nói thẳng, nói thật đang là căn bệnh của nhiều tổ chức Đảng, một số cấp ủy và cán bộ chủ chốt chưa thực sự gương mẫu trong công tác và sinh hoạt. Nguyên tắc công khai minh bạch trong hoạt động của hệ thống chính trị chưa được coi trọng. Để khắc phục tình trạng trên, hơn bao giờ hết cần nâng cao tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng, phát huy dân chủ thực sự, kiên quyết chống thái độ ươn hèn, yếu ớt trước những sai lầm, khuyết điểm của một số cán bộ, đảng viên. Cần xử lý nghiêm những biểu hiện thành kiến, trù dập người dám phê bình. Cần có những hình thức kỷ luật thích đáng đối với những người lợi dụng phê bình để đạt mục đích tư lợi, để gây chia rẽ mất đoàn kết nội bộ, để phá hoại Đảng. Cũng cần phải phê phán thái độ phê bình theo lối "vuốt ve", xu nịnh đối với cán bộ lãnh đạo... Tất cả những thái độ trên đây là biểu hiện sự thiếu văn hóa trong tự phê bình và phê bình.
Việc tìm hiểu khía cạnh văn hóa trong phê bình theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh giúp chúng ta hiểu thấu đáo hơn những chỉ dẫn của Người trong nguyên tắc sinh hoạt Đảng, góp phần xây dựng Đảng ta ngày càng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, gắn bó mật thiết với nhân nhân, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới, đưa đất nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển, mau chóng hoàn thành sự nghiệp CNH - HĐH trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.