Tư cách đạo đức của đồng chí Tôn Ðức Thắng được đánh giá nhất quán và rất cao, cả ở trong nước và cả ở nước ngoài, cả ở các đồng chí lãnh đạo Ðảng, Nhà nước cũng như trong dư luận quần chúng nhân dân: Ðồng chí Tôn Ðức Thắng là một biểu tượng sáng chói, một kiểu mẫu đạo đức cách mạng tiêu biểu của người cộng sản Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
Năm 1958, trong lời "Chúc mừng đồng chí Tôn Ðức Thắng thọ 70 tuổi", Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định ca ngợi tấm gương cao đẹp của đồng chí: "Ðồng chí Tôn Ðức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng: suốt đời cần, kiệm, liêm, chính; suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân"(1).
Ðồng chí Tôn Ðức Thắng tiếp nhận đạo đức Mác - Lê-nin, đạo đức cộng sản như là một cuộc hội ngộ, gặp gỡ lịch sử tự nhiên, tất yếu, nằm trong dòng chảy liền mạch hội nhập của văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại. Ý nghĩa thời đại của nhân cách đạo đức Tôn Ðức Thắng chính là ở nguồn gốc hội nhập chủ động, đầy sáng tạo đó. Các phẩm chất đạo đức cách mạng của đồng chí Tôn Ðức Thắng được hình thành, dần dần củng cố, hoàn thiện và phát huy tác dụng thông qua thực tiễn cách mạng. Một điều đặc biệt lý thú là thông qua các loại hình hoạt động thực tiễn cụ thể, đồng chí Tôn Ðức Thắng đã biết bổ sung vào nền móng đạo đức của mình các nhân tố mới, các giá trị mới, tích cực và tiến bộ, để tích hợp trong đó một hệ chuẩn giá trị của một nền đạo đức mới, vượt lên tất cả các hình thái đạo đức đã từng tồn tại trước đó.
Nghiên cứu hành vi ứng xử và toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Tôn Ðức Thắng, có thể khái quát thành các chuẩn mực đạo đức cơ bản sau đây: Suốt đời hy sinh phấn đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân, vì thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Cuộc đời của đồng chí Tôn Ðức Thắng thật sự là một tấm gương phấn đấu không biết mệt mỏi cho sự nghiệp độc lập dân tộc, giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Lý tưởng đó được đồng chí theo đuổi, thực hiện trọn vẹn trong suốt cả đời người. Xuất thân từ hàng ngũ giai cấp công nhân, từ lúc còn trẻ, đồng chí đã giác ngộ cách mạng và tham gia lãnh đạo phong trào yêu nước của nhân dân ta chống áp bức dân tộc, chống đế quốc, phong kiến.
Khi bị bắt giam, đày đọa 17 năm trời trong lao tù của thực dân Pháp, chịu đủ các cực hình hết sức dã man: chế độ khổ sai, nhốt vào hầm xay lúa, nhốt vào hầm tối, tay chân bị xiềng xích, kìm kẹp, bị đánh đập tàn bạo, bỏ đói, bỏ khát, đồng chí Tôn Ðức Thắng vẫn giữ vững tinh thần cách mạng kiên cường, không gì lay chuyển được. Trong nhà tù, đồng chí luôn luôn nêu cao tấm lòng yêu nước, chí khí quật cường của người công nhân, luôn luôn tin tưởng ở tương lai tươi sáng của dân tộc và của giai cấp, luôn luôn vui vẻ không bao giờ xao lãng công tác cách mạng, chịu khó học tập lý luận... Mục đích của đồng chí là làm tất cả mọi việc có lợi cho Ðảng, cho cách mạng để giải phóng dân tộc.
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, đồng chí thoát khỏi nhà tù, gông xiềng đế quốc. Vừa đặt chân đến đất liền thì cuộc kháng chiến bùng nổ, đồng chí lại tham gia ngay vào cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Trong vòng 35 năm (1945 - 1980), ở những cương vị quan trọng trong Ðảng, Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận, mặc dù tuổi cao, đồng chí Tôn Ðức Thắng đã hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ của mình, cùng Trung ương Ðảng, Chính phủ, Quốc hội và Mặt trận lãnh đạo nhân dân góp phần quan trọng vào thắng lợi vẻ vang của cách mạng: Ðánh thắng thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, đưa miền bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, đấu tranh giải phóng miền nam thống nhất đất nước, đưa cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.
92 năm tuổi đời, gần 70 năm hoạt động cách mạng, đồng chí Tôn Ðức Thắng đã đi đến cùng con đường cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Tấm lòng trung thành, tinh thần dũng cảm không gì lay chuyển; ý thức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân của Bác Tôn mãi mãi là một giá trị đạo đức trường tồn, nêu gương cho các thế hệ cách mạng và các thế hệ lãnh đạo sau này. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đây là những phẩm chất đạo đức hết sức nổi bật ở đồng chí Tôn Ðức Thắng.
Chủ tịch Tôn Ðức Thắng là một con người liêm khiết, trong sạch, sống ngay thẳng, chân thành; ghét sự xu nịnh, bè phái, chia rẽ, cơ hội chủ nghĩa; chỉ biết ham học, ham làm, ham tiến bộ, vì ích nước, lợi dân; không tham quyền, cố vị, thật sự chí công vô tư, đặt lợi ích của Ðảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết, "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ". Nhiều ứng xử của Bác Tôn về địa vị quyền lực đã trở thành huyền thoại.
Bác Tôn ghét thói đặc quyền đặc lợi; không bao giờ lợi dụng quyền hạn, chức vụ công tác để mưu cầu lợi ích riêng cho gia đình, cá nhân. Nhân ái, khoan dung, độ lượng, thương người, dung thứ cho người là những đức tính bẩm sinh của Bác Tôn, đã bộc lộ rõ nét ngay từ thuở nhỏ. Tính thương người này được mở rộng, nâng dần lên cùng với nhận thức và bề dày hoạt động thực tiễn: thương những người ruột thịt trong gia đình; bà con hàng xóm, thương bạn học, thương thầy cô giáo; thương người thợ cùng làm, cùng cảnh ngộ; thương đồng bào bị bóc lột, đàn áp; thương các dân tộc, quần chúng nô lệ trên thế giới bị đọa đày... Từ tình thương đồng bào, Bác Tôn đã vươn đến tầm tình thương yêu đồng loại và đạt đến chủ nghĩa nhân văn cộng sản cao quý: thương người - tin người - giải phóng con người - phát huy sức mạnh của con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Hiểu chủ nghĩa Mác - Lê-nin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa". Bác Tôn lĩnh hội chủ nghĩa Mác - Lê-nin theo tinh thần nhân văn cao cả đó: sống chí tình, chí nghĩa với đồng chí bạn bè; sống nhân ái, tình nghĩa, thủy chung với đồng bào, đồng chí.
Ở đồng chí Tôn Ðức Thắng, tình cảm yêu nước gắn liền với tinh thần quốc tế vô sản chân chính; yêu Tổ quốc, nhân dân Việt Nam, đồng chí cũng tôn trọng độc lập, chủ quyền của các nước khác; coi cuộc đấu tranh giành tự do, độc lập của các nước thuộc địa cũng như sự nghiệp cách mạng của nhân dân mình. Ðồng chí đã có những cống hiến lớn lao trong việc xây dựng khối đoàn kết quốc tế, giữ gìn và củng cố hòa bình thế giới.
Cuộc đời gần 70 năm hoạt động cách mạng của Chủ tịch Tôn Ðức Thắng là một tấm gương mẫu mực về lối sống khiêm tốn, giản dị, chân thành gần gũi đồng chí, đồng bào, nói đi đôi với làm, lý luận gắn liền với thực tiễn. Di sản quý giá mà đồng chí Tôn Ðức Thắng để lại cho Ðảng ta, nhân dân ta là phẩm chất đạo đức cao đẹp của người cộng sản, là sự hội tụ khí chất hào hiệp của người dân vùng sông nước Nam Bộ, là ý chí kiên cường và tài năng sáng tạo Việt Nam. Ðồng thời, ở đồng chí là sự hội tụ tinh túy của tinh thần yêu nước, thương dân, sự cảm thông, hòa đồng với đồng bào, đồng chí; niềm tin sắt đá vào thắng lợi của cách mạng, dù khó khăn, gian khổ, không dao động, một lòng, một dạ phục vụ nhân dân.