Những ngày tháng 4 rực nắng, cả nước lại rộn ràng Kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954. Và triệu triệu con tim lại thổn thức khi nhắc đến những người anh hùng đã ngã xuống tại chiến trường này. Chúng tôi - thế hệ con cháu của liệt sĩ Phan Đình Giót - người đã lấy thân mình lấp lỗ châu mai - càng thêm tự hào khi nhớ về chiến công của người anh hùng
Tuổi thơ cơ cực
Quê tôi ở làng Vĩnh Yên, xã Tam Lộng, tổng Mỹ Duệ (nay là thôn 7, xã Cẩm Quan, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh). Đó là miền quê giàu truyền thống cách mạng, gắn liền với tên tuổi của anh hùng kháng chiến chống Pháp Phan Đình Giót. Trong ký ức tuổi thơ, những câu chuyện về ông Phan Đình Giót được ông nội kể lại nhiều lần vẫn luôn in đậm trong tôi. Đó là những câu chuyện về sự chiến đấu ngoan cường, anh dũng hay những mẩu chuyện đời về bác Giót. Nội tôi năm nay đã 90 tuổi, trong trí nhớ của nội, Phan Đình Giót có dáng người bầu bĩnh, khuôn mặt tròn trông rất khôi ngô tuấn tú.
Phan Đình Giót sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo không một tấc đất cắm dùi. Bố là Phan Đình Bân, sinh được 3 người con là: Phan Đình Tặng (nay đã mất), Phan Đình Giót và Phan Đình Giát. Ngày Phan Đình Giót lên 3 tuổi, cụ Bân đi làm thuê bị cảm hàn rồi mất. Thương mẹ tảo tần nuôi 3 anh em, bác Giót mới 10 tuổi đã xin đi ở đợ cho Cố Thung - địa chủ trong làng Vĩnh Yên lúc bấy giờ. Ông nội tôi kể: “Thuở nhỏ, cả bác Giót và ông đều đi ở đợ cho nhà cố Thung. Là người mê thổi sáo, lúc nào đi chăn trâu, bác Giót cũng giắt theo cây sáo bên người. Bác Giót ở đợ mãi cho đến khi lấy bà Ran thì lại đi ở rể. Được 1 năm, sinh được 1 cậu con trai nhưng năm đó đói kém dịch bệnh nên con trai bác cũng mất khi mới được mấy tháng. Sau đó bác đi bộ đội và hy sinh. Bác Giót hiền lắm, cả đời đi ở đợ, rồi đi đánh giặc, hy sinh mà chưa kịp hưởng một giây phút nào sung sướng!”.
Kể về ông Giót, tôi còn nhớ như in câu chuyện mà cụ Hoài, cụ A - những bậc cao niên trong làng vẫn hay kể lại. Thuở còn đi ở đợ cho nhà cố Thung, một hôm ông đi chăn bò và cắt dây khoai lang về chăn lợn. Mải cắt khoai lang, con bò xuống ăn rau lang lúc nào không biết. Tiện đang cầm liềm trong tay, bác ném để đuổi con bò. Không may liềm cứa vào chân sau con bò bị què. Cố Thung nổi cơn thịnh nộ, đánh đập chửi mắng bác thậm tệ và bắt phải đền con bò. Nhà nghèo lấy đâu ra tiền, thế là từ hôm đó, bác đi ở cho cố Thung không công. Thương mẹ, thương em nhưng bác đành cắn răng chịu.
Trong những câu chuyện về ông Giót, hình ảnh ngày ông Giót lên đường nhập ngũ mỗi lần được nghe lại tôi vẫn thấy xúc động tột cùng. Ông Giát, em trai liệt sĩ Phan Đình Giót kể: “Hôm đó là một ngày giữa tháng 7 năm 1951, nắng rát da mặt. Ông đi bộ tiễn anh trai đi nhập ngũ, đi theo đường đê Cẩm Thành ra đến cầu Quán Kho cũng được 9, 10 cây số thì anh không cho đi nữa, bảo “Em về chăm sóc mẹ, đừng khóc! Anh đi rồi anh lại về mà!”
Vậy nhưng, câu hẹn ước “anh đi rồi anh lại về” đã không trở thành hiện thực. Đó cũng là lần cuối cùng 2 anh em gặp nhau để rồi 3 năm sau, ông nhận được giấy báo tử của anh trai mình. Trong nỗi nghẹn ngào nhớ thương anh trai, ông Giát tiếp câu chuyện: “Lúc ra đi, nhà không có lấy một hạt gạo, mẹ ông phải chạy vạy khắp nơi mới vay được cân gạo, nấu 1 nửa 2 anh em ăn còn 1 nửa gói để anh mang theo. Ông được bộ quần áo nâu lành lặn đang mặc trên người thì cũng cởi ra để cho anh mặc”.
Chiến đấu anh dũng và hy sinh
Trong những ngày tháng huấn luyện ở Tân Trào, Phan ĐìnhGiót thường xuyên biên thư về cho gia đình. Sau 3 tháng huấn luyện, Phan Đình Giót được tham gia một loạt chiến dịch lớn: Trung Du, Hòa Bình, Tây Bắc. Chiến dịch nào ông cũng có mặt trong những trận đánh quyết định, lập công xuất sắc. Trận Tràng Bạch, chiến dịch đường 18, sau khi đánh sập lô cốt chìm của địch, bác bị thương mà không chịu về tuyến sau, xin bằng được ở lại tiếp tục chiến đấu đến khi trận đánh kết thúc. Trận Chùa Tiếng, một mình bác mưu trí, linh hoạt diệt 4 ụ đại liên của địch, làm cho kẻ thù khiếp sợ, hoảng loạn mất tinh thần chiến đấu. Cuối năm 1951, Trung đoàn nhận nhiệm vụ phục kích đánh địch khi chúng chuyển lên Hòa Bình. Đại đội của Phan Đình Giót được giao nhiệm vụ vượt Sông Đà tấn công đồn Ba Vì.Đội hình bị lộ, địch dùng máy bay, pháo binh oanh tạc giữ dội. Phan Đình Giót dẫn đầu một tổ chủ công xung phong dưới làn bom đạn, nhanh chóng áp sát mục tiêu, san bằng đồn địch, làm cho quân thù kinh hoàng.
Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị họp quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, trong chiến lược Đông Xuân 1953- 1954. Lúc ấy, Phan Đình Giót là Tiểu đội trưởng bộc phá, thuộc Đại đội 58, Tiểu đoàn 428, Trung đoàn 141, Đại đoàn 312 đã cùng đồng đội hành quân cấp tốc lên Tây Bắc, vượt qua 500 km đường rừng với không biết bao nhiêu đèo cao, vực thẳm. Đơn vị vừa hành quân, vừa mở đường.
Đúng 17 giờ ngày 13/3/1954, được chi viện 80 khẩu pháo và súng cối, Đại đoàn 312 đồng loạt tấn công vào cứ điểm Him Lam.
Trước khi ta tấn công Điện Biên Phủ, quân địch ngạo mạn tuyên bố: “Điện Biên Phủ là pháo đài bất khả xâm phạm” mà Him Lam là “quả đấm thép” bảo vệ vòng ngoài của pháo đài. Tiểu đội của Phan Đình Giót có nhiệm vụ dùng bộc phá mở cửa tạo điều kiện cho quân ta đánh chiếm mục tiêu số 2 của địch. Kẻ thù chống trả quyết liệt, ta và địch giành giật với nhau từng mét hàng rào. Phan Đình Giót đánh đến quả bộc phá thứ 9 thì bị thương ở đùi, vẫn lao lên đánh quả thứ 10. Vết thương máu chảy nhiều làm bác lim đi, khi tỉnh dậy thấy địch tập trung hỏa lực quyết không cho quân ta tiến. Các tổ trung liên của ta đều bị pháo 155mm của địch từ Mường Thanh, đồi Độc Lập bắn tới làm cho vũ khí bị vùi lấp, anh em tổn thất rất lớn. Quân ta dồn lại trước cửa mở, các mũi xung kích bị chặn lại.
Trước tình thế vô cùng cam go, Phan Đình Giót ép mình xuống sát đất rồi nhích dần, nhích dần về phía hỏa lực địch. Đạn trong lô cốt địch bắn ra sáng rực cả màn đêm. Phan Đình Giót nhoài người lên đánh tiếp 2 quả bộc phá, phá toang hàng rào cuối cùng. Bọn địch tập trung hỏa lực bịt bằng được cửa mở. Lợi dụng góc chết, Phan Đình Giót tiêu diệt lô cốt số 2, ném thủ pháo, bắn kiềm chế cho bộ đội ta tiến lên. Lúc này Phan Đình Giót bị thương vào vai, máu chảy đầm đìa, hỏa lực lô cốt số 3 bắn xối xả vào đội hình của ta. Quân ta không tiến được. Phan Đình Giót dùng hết sức bình sinh, vươn người dậy lấy đà, lao cả thân mình vào bịt lỗ châu mai. Hỏa điểm lợi hại nhất của địch bị dập tắt. Bộ đội ta thừa thắng xông lên tiêu diệt toàn bộ cứ điểm Him Lam. Lúc đó là 22 giờ 30 phút ngày 13/3/1954.
Quá khứ là “bệ phóng” cho tương lai!
Phan Đình Giót hy sinh đổi lấy hòa bình, độc lập cho dân tộc. Ông trở thành tấm gương sáng để chúng tôi - thế hệ cháu con tự hào và noi gương học tập. Dòng tộc Phan Đình ở thôn 7, xã Cẩm Quan, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh là một trong những dòng họ lớn nhất ở địa phương, có hơn 50 hộ với gần 300 nhân khẩu. Họ Phan Đình có 29 người tham gia quân đội chống Pháp, trong đó có 2 liệt sĩ (1 người là Phan Đình Giót). Hiện nay, con cháu họ Phan Đình sinh sống và làm việc ở khắp mọi miền tổ quốc. Họ Phan Đình cũng là dòng họ hiếu học nổi tiếng trong vùng. Tiếp nối truyền thống yêu nước của Anh hùng liệt sĩ Phan Đình Giót, con cháu họ Phan Đình nói riêng và con em đất Cẩm nói chung đang ra sức xây dựng quê hương. Xã Cẩm Quan - quê hương Anh hùng liệt sĩ Phan Đình Giót đang từng ngày “thay da đổi thịt” nhờ chủ trương xây dựng nông thôn mới. Hiện nay, xã Cẩm Quan đạt 7/19 tiêu chí về xây dựng NTM. Toàn xã có 1.842 hộ gia đình văn hóa (chiếm 79,3%). Tỷ lệ hộ nghèo chiếm 8,31%. Thu nhập bình quân đầu người đạt 18 triệu đồng/người/năm.
Con đường làng đưa tôi về mùa này mướt xanh màu mạ. Lúa đang thì con gái gặp nguồn nước từ hồ Kẻ Gỗ chảy về nên đẹp lạ thường. Trên con đường ấy, tượng đài liệt sĩ Phan Đình Giót đang được các em học sinh quét dọn, vệ sinh sạch sẽ và thắp hương chu đáo để chuẩn bị cho dịp Kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ. Trong làn hương khói nghi ngút, ông Giát nhắn nhủ với tôi: “Nguyện vọng cuối đời của ông là trước khi “nhắm mắt xuôi tay” được lên Điện Biên Phủ để thắp hương cho anh trai mình”. Còn chúng tôi - thế hệ cháu con của người nguyện ra sức phấn đấu để xây dựng quê hương giàu đẹp, xứng đáng với truyền thống của cha ông!