Trung Quốc ngụy biện về chủ quyền cái gọi là "Tây Sa"

09:49, 12/06/2014

Bất chấp dư luận quốc tế, bất chấp những nỗ lực ngoại giao của Việt Nam, Trung Quốc vẫn không rút giàn khoan Hải Dương 981 hạ đặt trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Hơn 1 tháng nay, Trung Quốc ngang ngược sử dụng vũ lực tấn công các tàu thực thi pháp luật của Việt Nam đang làm nhiệm vụ trên biển và tàu cá của ngư dân Việt Nam.

Ngày 8/6, Bộ Ngoại giao Trung Quốc lại công bố tài liệu biện minh cho yêu sách “chủ quyền” của nước này đối với quần đảo Hoàng Sa, biện hộ cho hoạt động phi pháp của giàn khoan Hải Dương 981 trong thềm lục địa của Việt Nam. Mặc dù lớn tiếng khẳng định chủ quyền với cái gọi là Tây Sa (mà thực chất là quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam) nhưng Trung Quốc không đưa ra được chứng cứ thuyết phục nào. Giới lãnh đạo Trung Quốc cũng như các học giả nước này luôn né tránh hoặc giải thích quanh co khi được yêu cầu làm rõ về chủ quyền mà Trung Quốc đã tuyên bố. Trong khi đó, Việt Nam có đầy đủ những bằng chứng pháp lý cũng như lịch sử để chứng minh chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa.

 

Trung Quốc ngụy biện về chủ quyền " Tây Sa"

 

Trung Quốc yêu sách chủ quyền đối với quần đảo “Tây Sa”, tức quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, theo nguyên tắc “chủ quyền lịch sử”. Lập luận của nước này là: Người Trung Quốc đã phát hiện ra các đảo này sớm nhất và đã đặt tên cho chúng; Ngư dân Trung Quốc đã khai thác các đảo này từ hàng nghìn năm nay. Điều đó chứng minh chủ quyền của Trung Quốc; Trung Quốc đã thực hiện các hành động cai quản ở quần đảo này từ lâu đời…

 

Căn cứ nguyên tắc của luật pháp quốc tế về quyền thụ đắc lãnh thổ cho đến nửa cuối thế kỷ XIX, lập luận này của Trung Quốc liệu có đứng vững được không? 

 

Từ cuối thế kỷ XV, luật quốc tế công nhận các hành vi tượng trưng của việc sáp nhập lãnh thổ do quốc gia phát hiện ra thực hiện như là danh nghĩa nguyên thủy của việc chiếm hữu. Nhưng phát hiện với ý định sở hữu là chưa đủ để tạo ra quyền sở hữu đối với lãnh thổ vô chủ cho quốc gia phát hiện. Yếu tố tinh thần này phải được củng cố bằng yếu tố vật chất qua việc chiếm hữu thực sự, hiệu quả và quản lý hành chính trong một thời gian hợp lý, mà độ dài phụ thuộc vào hai yêu cầu: một là, sự khẳng định quyền lực trong vùng đó đối với không chỉ các chủ thể trong nước mà cả với các chủ thể ngoài nước; hai là, không có tranh chấp từ phía quốc gia khác. Tóm lại, quốc gia đó cần phải chứng minh được rằng, việc chiếm hữu là rõ ràng, hòa bình, liên tục và không có tranh cãi.

 

Đáng chú ý, riêng quyền phát hiện không được coi là đủ để đảm bảo quyền chiếm hữu xác định. Nó phải được củng cố bằng sự chiếm cứ thực sự do Nhà nước thực hiện. Việc một cá nhân hoặc nhiều cá nhân là công dân của một nước thực hiện hành vi chiếm hữu với tư cách cá nhân sẽ không tạo ra một danh nghĩa chủ quyền cho Nhà nước đó.

 

Về danh nghĩa lịch sử hay quyền phát hiện, Sách trắng của Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 30 tháng 1 năm 1980 với nhan đề Chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc trên các đảo Tây Sa và Nam Sa khẳng định: “Từ thời Hán Vũ đế trước Công lịch hai thế kỷ, nhân dân Trung Quốc đã bắt đầu đi lại trên biển Nam. Trải qua thực tiễn hàng hải lâu dài, nhân dân Trung Quốc đã lần lượt phát hiện các quần đảo Tây Sa và Nam Sa ”. Để chứng minh danh nghĩa lịch sử của họ, phía Trung Quốc đã dựa trên những cuốn sách chính như: Nam châu dị vật chí; Vũ kinh tổng yếu; Mộng Lương Lục; Đảo di chí lược; Đông Tây dương khảo; Độc sử phương dư kỷ yếu,…

 

Tuy nhiên, các sách này hoàn toàn không phải là các chính sử do các cơ quan của Nhà nước Trung Quốc ấn hành. Không phải là những phát hiện với ý định sở hữu, nguồn tài liệu này đều là các chuyên khảo, tài liệu địa dư hoặc các sách hàng hải do các nhà địa lý hoặc nhà hàng hải chép về các chuyến đi, mô tả về các lãnh thổ, thể hiện những nhận biết chung về địa lý liên quan không chỉ tới lãnh thổ Trung Quốc mà còn là lãnh thổ của các nước khác. Những tài liệu này không đưa ra cơ sở khoa học vững chắc để kết luận rằng những địa điểm được đề cập trong các tác phẩm đó là Hoàng Sa mà Trung Quốc đã sở hữu hơn 2000 năm.

 

Theo ông Phạm Hoàng Quân, nhà nghiên cứu độc lập chuyên về cổ sử và cổ địa dư Trung Quốc, những tài liệu do phía Trung Quốc đưa ra không có hiệu lực pháp lý: “Thời xưa, Trung Quốc có những nhà du hành, hàng hải, những thương thuyền,… Họ đi giao thiệp về chuyện buôn bán ở phía Nam. Trong quá trình đi, họ thấy những vùng đảo. Họ ghi chép lại. Đó là dạng sách du ký, không phải tư liệu chính thống của chính quyền Trung Quốc. Để xác lập chủ quyền, những điều được biên chép phải nằm trong chính sử, sách địa chí, Trung Quốc gọi là phương chí, những phương tiện được Nhà nước thừa nhận.”

 

 

Nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân: Những tài liệu do phía Trung Quốc đưa ra không có hiệu lực pháp lý.

 

Mặt khác, sự tiếp xúc riêng rẽ của những cư dân Trung Quốc đối với Hoàng Sa liệu có đủ để thiết lập chủ quyền của nước này tại đó không?

 

So sánh với các tiêu chuẩn quốc tế về thụ đắc lãnh thổ, các ghi chép mà Trung Quốc viện dẫn không đủ chứng minh rằng quyền phát hiện đã được xác lập. Một đảo hoặc một quần đảo có thể là đối tượng nhận biết từ lâu đời của các nhà hàng hải, các ngư dân, các nhà địa lý,… nhưng chúng vẫn chỉ được coi là lãnh thổ vô chủ một khi quốc gia của họ chưa tiến hành một hành động Nhà nước nào tại đó. Các hoạt động tư nhân của các ngư dân Trung Quốc không thể mang lại hiệu lực pháp lý của “quyền phát hiện” và nó không thể được đánh đồng với quyền chiếm hữu.

 

Ông Hồ Bạch Thảo, nhà nghiên cứu về Biển Đông người Mỹ, gốc Việt, một chuyên gia cổ sử chỉ rõ, việc “chiếm cứ” này thiếu hẳn ý định của Nhà nước sáp nhập các đảo đó vào lãnh thổ quốc gia: “Tôi nghiên cứu tất cả các sử liệu thời Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh cho đến nhà Thanh thì chưa bao giờ thấy các nhà vua Trung Quốc xác nhận chỗ đó là lãnh thổ Trung Quốc. Chuyện ngư dân Trung Quốc khai thác cá, đánh bắt hải sản có thể xảy ra bất cứ thời nào. Chuyện đó không thể là căn cứ để khẳng định chủ quyền được. Chủ quyền phải do quốc gia thiết lập.”

 

Mặt khác, các thủy thủ và ngư dân Trung Quốc không phải là những người duy nhất qua lại các quần đảo. Biển Đông từ lâu đời đã có thuyền bè của người Ấn Độ, Ả Rập, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp và nhiều nước khác lai vãng tới.

 

Có thể các hoạt động của ngư dân sẽ kéo theo sự chú ý và ý định của Nhà nước trên lãnh thổ vô chủ. Tuy nhiên, yếu tố ý chí này không đủ khi còn thiếu yếu tố vật chất của các hoạt động Nhà nước trên thực địa.

 

Để chứng minh sự quản lý của Trung Quốc trên các đảo này từ hàng nghìn năm, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đưa ra ba sự kiện:

 

Sự kiện thứ nhất: Từ thời nhà Tống (960-1127), hải quân Trung Quốc đã đi tuần tra quân sự đến vùng biển quần đảo Hoàng Sa. Sự khẳng định này dựa trên cơ sở đoạn văn trích từ Vũ Kinh tổng yếu.

 

Về vấn đề này, Sách trắng năm 1981 của Việt Nam chỉ rõ, đoạn trích từ Vũ Kinh tổng yếu là sự kết hợp từ ba đoạn riêng rẽ khác nhau trong một đoạn sau lời tựa. Theo đó, trong đoạn trích này, có đoạn nêu Bắc Tống “lệnh cho quân nhà vua đi trấn giữ đặt dinh lũy thủy quân tuần biển ở Quảng Nam”, “đóng tàu chiến đao ngư”, có đoạn mô tả vị trí địa lý của đồn binh, đoạn khác tả lộ trình đi từ cảng Quảng Nam tới tận Ấn Độ Dương. Đó là hành trình khảo sát địa lý hơn là tuần tra lãnh thổ của Trung Quốc. Đó không thể là bằng chứng đầy đủ để nói rằng, ngay từ thời nhà Tống, quần đảo Hoàng Sa đã thuộc quyền quản lý của Trung Quốc.

 

Sự kiện thứ hai, đó là vào thế kỷ thứ XIII, Hoàng đế nhà Nguyên đã ra lệnh cho một nhà thiên văn học nổi tiếng là Quách Tử Kính đo đạc thiên văn, mà một trong những điểm quan trắc trong đó được thực hiện từ Hoàng Sa.

 

Thực ra, theo Nguyên Sử, bộ sử chính thức của nhà Nguyên, việc đo đạc thiên văn được ghi chép như sau: “Việc đo bóng mặt trời bốn biển ở hai mươi bảy nơi. Phía Đông đến Cao Ly, phía Tây đến Điền Trì, phía Nam qua Chu Nhai, phía Bắc đến Thiết Lặc.”

 

Nguyên Sử chép rõ tên 27 nơi đo đạc thiên văn, trong đó có những địa danh hoàn toàn không thuộc cương vực Trung Quốc như Cao Ly (Triều Tiên), Thiết Lặc (Siberia). Các quan trắc thiên văn này có phần tiến hành trên lãnh thổ Trung Quốc, có phần nằm ngoài cương vực Trung Quốc. Do đó, nó không thể tạo ra bằng chứng xác đáng cho chủ quyền Trung Quốc. Hơn nữa, một hành động nghiên cứu khoa học chưa đủ để tạo nên một danh nghĩa chủ quyền.

 

Sự kiện thứ ba, người Trung Quốc đưa ra tài liệu về một cuộc tuần biển được tổ chức trong khoảng các năm 1710-1712 dưới triều nhà Thanh. Ngô Thăng, Phó tướng thủy sư Quảng Đông chỉ huy chuyến đi này.

 

Nghiên cứu nghiêm túc cho thấy, những địa danh nêu trong đoạn trích này đều nằm xung quanh đảo Hải Nam. Quỳnh Nhai ở phía Bắc đảo Hải Nam. Đồng Cổ ở mỏm Đông Bắc đảo Hải Nam. Thất Châu Dương là vùng biển có bảy hòn đảo gọi là Thất Châu, nằm ở phía Đông đảo Hải Nam. Tứ Canh Sa là bãi cát ở phía Tây đảo Hải Nam. Rõ ràng, dõi theo hành trình này trên bản đồ, dễ dàng nhận thấy đó là một con đường đi vòng quanh đảo Hải Nam.

 

TS. Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Ban Biên giới của Chính phủ, nay là Ủy ban Biên giới Quốc gia thuộc Bộ Ngoại giao cho rằng, các văn kiện mà phía Trung Quốc trích dẫn không thể hiện được đã có việc kiểm soát quần đảo. Nó thiếu các yếu tố mà luật quốc tế thời đó đòi hỏi.

 

“Trung Quốc dựa vào cái gọi là chủ quyền lịch sử, danh nghĩa lịch sử. Căn cứ vào các sự kiện, các dữ liệu trong lịch sử để chứng minh chủ quyền là hết sức mơ hồ. Lịch sử có thể giúp tìm ra các bằng chứng có giá trị pháp lý để chứng minh chủ quyền, chứ không có nghĩa dùng các sự kiện được ghi trong lịch sử để chứng minh chủ quyền. Cho nên người ta căn cứ vào nguyên tắc thực sự: Đó là việc chiếm hữu với tư cách Nhà nước và thực thi chủ quyền đó rõ ràng, hoà bình, liên tục và có hiệu quả. Trung Quốc không có điều đấy”, TS Trần Công Trục phân tích. 

 

Giáo sư Carlyle A. Thayer: Trung Quốc đưa ra đòi hỏi chủ quyền dựa trên

quyền lịch sử không được xác định rõ.

 

Ông Carlyle A. Thayer, Giáo sư Học viên Quốc phòng Australia bình luận: “Trung Quốc đưa ra đòi hỏi chủ quyền dựa trên quyền lịch sử không được xác định rõ. Đúng là các ngư dân Trung Quốc đã đến khai thác, Trung Quốc đã vẽ các quần đảo này lên bản đồ. Tuy nhiên, theo luật pháp quốc tế, việc phát hiện và đặt tên không có nghĩa là được sở hữu. Nếu theo cách suy luận của Trung Quốc thì liệu Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha có thể ra yêu sách với toàn bộ Đại Tây Dương hay không vì họ đã phát hiện ra nó từ thế kỷ XVI? Câu trả lời tất nhiên là không! Họ chỉ đi thuyền qua và phát hiện ra nó, chứ không sở hữu nó. Điều Trung Quốc nói rất ngang ngược.”

 

Các viện dẫn của Trung Quốc còn mâu thuẫn với chính các nguồn tư liệu của nước này. Có nhiều tài liệu địa lý cổ mô tả và phân định rõ lãnh thổ của Thiên triều kết thúc ở điểm cực Nam của đảo Hải Nam, như: Quỳnh Châu phủ chí (1731), Hoàng Triều di tông tâm lĩnh (1894), Đại Thanh di đồ (1905),…; hay các sách, bản đồ cổ khác của người Trung Quốc. Cụ thể, điểm mút phía nam của lãnh thổ Trung Quốc nằm ở Nhai Châu, thuộc phủ Quỳnh Châu, tỉnh Quảng Đông, tại vĩ độ 18013’ Nam. Sách Trung Quốc Địa lý Giáo khoa thư, Thượng Vụ Ấn Thư quán, Thượng Hải năm 1906 xuất bản cũng khẳng định: “Phía Nam bắt đầu là vĩ độ 18013’ Nam lấy bờ biển Châu Nhai đảo Quỳnh Châu (tức đảo Hải Nam) làm điểm mút”.

 

Tháng 5 năm 2014, Việt Nam đã tiếp nhận và công bố bộ Atlas thế giới Bruxelles – 1827. Bộ Atlas này gồm 6 tập do nhà Địa lý học Philippe Vandemaelen,  người sáng lập Viện Địa lý Hoàng gia Bỉ, xuất bản năm 1827. Theo đó, Việt Nam được giới thiệu trong các tấm bản đồ số 97, 105, 106, 110. Tấm bản đồ số 106 vẽ đường bờ biển miền Trung từ vĩ tuyến 12 tới vĩ tuyến 16 (thuộc khu vực Trung kỳ, Đàng Trong của Việt Nam lúc bấy giờ). Trong tấm bản đồ này, quần đảo Hoàng Sa được vẽ rất cụ thể, chi tiết và chính xác. Nó được đặt trong mối tương quan với các đảo và khu vực ven bờ như Lý Sơn, Cù Lao Chàm, Cù Lao Ré, Quy Nhơn, Nha Trang. Đáng chú ý, trong phần chú thích trên tấm bản đồ 106, Philippe Vandermaelen ghi rõ “Đế chế An Nam”, thể hiện rất rõ chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa.

 

Nhà sử học Dương Trung Quốc, Tổng Thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam cho rằng, bản đồ cổ chính là những yếu tố khách quan có từ xa xưa đã phản ánh đúng thực tế lịch sử: “Bản đồ là hết sức khách quan của những người phương Tây hoặc từ những tác giả từ rất xa xưa khi mà chưa nảy sinh những vấn đề tranh chấp của ngày hôm nay. Tất cả những yếu tố khách quan đó càng chứng minh được, chủ quyền của chúng ta đã được xác lập từ xưa, cộng với những nguồn sử liệu trong nước, đặc biệt là những sử liệu thể hiện việc thực thi quyền quản lý liên tục, hòa bình, kể cả trách nhiệm đối với hàng hải thế giới. Những yếu tố xa xưa ấy lại là những giá trị rất thời sự cho ngày hôm nay.”

 

GS. TS Đỗ Tiến Sâm, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Trung Quốc, Viện Khoa học xã hội Việt Nam cho rằng, lập luận của Trung Quốc trên cơ sở quyền phát hiện và sự quản lý là không đúng sự thật: “Những yêu sách của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa với những chứng cứ lịch sử mà họ đưa ra hoàn toàn không đúng đắn. Những tài liệu, sử sách mà Trung Quốc viết đều không đề cập đến quần đảo Hoàng Sa. Có thể nói, chứng cứ lịch sử mà Trung Quốc đưa ra là không đúng sự thật.”

 

Rõ ràng, lập luận rằng, người Trung Quốc đã phát hiện, khai phá, khai thác và quản lý quần đảo Hoàng Sa từ cách đây 2000 năm là không thể đứng vững trước ánh sáng của Luật pháp quốc tế và thực tiễn hiện nay.

 

Những lời khẳng định rườm rà trong nhiều sách hay bài viết của Trung Quốc khẳng định một danh nghĩa lịch sử lâu đời của nước này đối với quần đảo Hoàng Sa đều không có giá trị.

 

Trong khi đó, các tài liệu của nước ta cho thấy, Việt Nam không chỉ hiểu biết từ lâu đời về Hoàng Sa mà đã chuyển hóa sự hiểu biết này thành việc chiếm hữu thực sự ít nhất từ thế kỷ XVII.