Mãi 21 giờ tối một ngày giữa tháng 8 năm nay, sau khi dự Lễ kỷ niệm 69 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9, tôi vừa từ Tân Trào (Tuyên Quang) về đến T.P Thái Nguyên thì nhận được điện thoại của Tiến sĩ (T.S) Chu Đức Tính, nguyên Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh, mời 8 giờ sáng hôm sau xe qua đón để đi cùng anh Lợi, cháu ông Phạm Văn Lộc, là chiến sĩ bảo vệ, giúp việc Bác Hồ, đã hy sinh tại Khuôn Tát, An toàn khu (ATK) Định Hóa năm 1948. Và, câu chuyện về gia đình người liệt sĩ can trường ấy dần hé mở, gây niềm xúc động mãnh liệt trong tôi.
Ngược dòng lịch sử. Vào đầu tháng 6-1928, Nguyễn Ái Quốc từ Béclin (Đức) qua Thụy Sĩ, Italia, đến Napoli rồi đáp tàu thủy đi Xiêm (Thái Lan). Lấy bí danh là Thầu Chín, Người thâm nhập vào khu Việt kiều ở tỉnh Uđon Thani, chọn anh Nguyễn Văn Ty (sinh năm 1900, quê ở xã Lương Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình) làm người bảo vệ, giúp việc và đặt tên là Phạm Văn Lộc. Anh Lộc tháo vát, thông minh, thông thạo tiếng Thái Lan, tiếng Lào, tiếng Pháp, giỏi võ nghệ, có nghề thuốc nam gia truyền, rất tiện cho việc bảo vệ, đưa Thầu Chín từ Uđon Thani đến các tỉnh Xa Vong, Na Khôn Pha Nôm, Noong Khai.... Hai thầy trò quẩy gánh giả dạng bán thuốc, rong ruổi khắp Thái Lan. Thầu Chín phát hành tờ báo “Thân Ái” trong bà con Việt kiều, đào tạo hội viên Chi hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, dịch sách Mác xít phổ thông để phục vụ phong trào cách mạng ở trong nước.
Đến tháng 11-1929, theo Nguyễn Ái Quốc sang Trung Quốc hoạt động, anh Lộc chia tay người vợ trẻ Nguyễn Thị Cúc (mới 22 tuổi, là một liên lạc viên tháo vát, được Thầu Chín gọi là thím Nghĩa) với lời dặn dò: Nếu 3 năm anh không về, em hãy đi lấy chồng... Anh Lộc cũng căn dặn Nguyễn Bun, một thành viên của tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội: Mình đi hoạt động bí mật nay đây mai đó, biền biệt khó về, vợ mình lại không có khả năng sinh nở, vợ chồng anh mà sinh con thì cho nhà tôi một đứa nuôi làm chỗ dựa lúc về già...
Ông Đặng Văn Cáp - một cán bộ lão thành cách mạng - kể lại trong hồi ký “Con đường dẫn tôi đến với Bác”: Tháng 5-1940, đồng chí Trịnh Đông Hải (tức Vũ Anh) đang làm cho hiệu Vĩnh An Đường, lợi dụng xe của chủ, lái xe lên đón Đặng Văn Cáp và đồng chí Lộc (Phạm Văn Lộc) về Côn Minh - Trung Quốc, được Phùng Chí Kiên đưa vào gặp đồng chí Hồ Quang - hóa ra là anh “Thầu Chín” ông đã gặp ở Thái Lan. Ở đây, Phạm Văn Lộc và Đặng Văn Cáp còn gặp Lâm Bá Kiệt (Phạm Văn Đồng), Dương Hoài Nam (Võ Nguyên Giáp) và Bùi Thanh Bình (tức Bùi Đức Minh) ở trong nước mới sang và Cao Hồng Lĩnh từ Diên An (Trung Quốc) về. Bác (đồng chí Nguyễn Ái Quốc) dự tính về nước bằng đường Côn Minh - Lào Cai qua huyện Khai Viễn. Bác phái Bùi Thanh Bình về Hồ Kiều tìm hiểu tình hình đường xá và cử đồng chí Lộc về theo, làm nhiệm vụ khảo sát tìm đường “đột nội” về nước. Về Hồ Kiều (Hà Khẩu - thị trấn có cửa khẩu thông sang Lào Cai), Bùi Thanh Bình có nhiệm vụ thăm dò tình hình trong nước, Phạm Văn Lộc được đưa vào làm ở một hiệu bánh để làm cơ sở liên lạc, có nhiệm vụ lo liệu mọi mặt suốt dọc đường từ Vân Nam về Hồ Kiều sau này...
Cuối tháng 6-1940, đường giao thông bị tắc, kế hoạch về nước bằng đường Lào Cai bị bỏ, đồng chí Lộc được Nguyễn Ái Quốc gọi về Côn Minh. Hạ tuần tháng 12-1940, Nguyễn Ái Quốc cùng một số cán bộ rời Quế Lâm đi Tĩnh Tây (Quảng Tây), sau Tết dương lịch 1941, đồng chí Hoàng Văn Thụ gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tại Tân Khư, Tĩnh Tây, thay mặt Trung ương Đảng báo cáo với Người tình hình trong nước, những công việc đang thực hiện và kế hoạch chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương lần thứ 8, đề nghị Người chọn hướng Cao Bằng để về nước... Nguyễn Ái Quốc cùng Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Phùng Chí Kiên, Đặng Văn Cáp được Hoàng Sâm dẫn đường qua Nậm Bó xuống Nậm Quang, một làng sát biên giới Trung - Việt, mở lớp huấn luyện 43 thanh niên yêu nước từ Cao Bằng sang. Sau đó Nguyễn Ái Quốc cùng Lê Quảng Ba, Phùng Chí Kiên, Đặng Văn Cáp, Thế An và Phạm Văn Lộc (Bảo tàng Hồ Chí Minh xác minh là Phạm Văn Lộc chứ không phải Hoàng Văn Lộc như trong các tài liệu sách báo trước đã nêu) về nước. Ngày 1 tháng 1 Tết Tân Tỵ (1941), Nguyễn Ái Quốc cùng đoàn đi chúc Tết nhân dân hai làng Nậm Quang và Ngàn Tấy, ngày hôm sau (28-1-1941, tức mùng 2 Tết), đoàn rời Nậm Quang, vượt qua cột mốc số 108 về Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng…
Bà Hoàng Thị Hoa, 93 tuổi, dân tộc Tày, là cán bộ Lão thành cách mạng, vợ đảng viên Hoàng Văn Súng (tức La Thanh) thuộc Chi bộ Pác Bó, nhà ở bản Cốc Chủ (làng Pác Bó), được Già Thu (tức Bác Hồ) đến nhà ở, làm việc trong 3 ngày đầu tiên (khi Người mới về nước), rồi đặt tên bà là Hoa và đặt trạm liên lạc tại nhà bà trong những năm 1941-1945, cho tôi biết: Khi Bác Hồ ở hang Cốc Bó, cách nhà La Thanh trên 200m, thiếu thốn trăm bề, ăn uống kham khổ, nhờ có anh Lộc lo toan nên cũng đỡ phần nào. Cháo bẹ, măng luộc, hoa chuối, bữa ăn ngô nhiều hơn cơm, anh Lộc bao giờ cũng dành cho mình phần ngô để phần cơm nhiều hơn cho Bác. Khi nấu cơm, anh chắt lấy nước nài nỉ Ông Ké (Bác Hồ) uống để bồi dưỡng, rồi vận động anh em mò cua, bắt ốc, đánh cá, đi săn, nuôi thả rau cải soong thành từng đám nhỏ bên khe suối (đến nay bà con ở Pác Bó vẫn nuôi thả “rau Bác Hồ”) để có thêm những bữa ăn tươi chống lại cái giá lạnh, ẩm thấp nơi miền sơn cước, để Bác cháu vượt qua những cơn sốt rét rừng. Phạm Văn Lộc thạo cả tiếng Trung Quốc, tiếng Tày, sống chan hòa, được dân bản Pác Bó quý mến… Sau đó Bác Hồ chuyển về Tân Trào (Tuyên Quang) chỉ đạo phong trào cách mạng.
Trước lúc rời Tân Trào về Hà Nội (tháng 8-1945), Bác Hồ đã căn dặn các đồng chí ở lại (Phạm Văn Đồng, Hoàng Văn Hoan, Trần Thị Minh Châu, Triệu Hồng Thắng và Phạm Văn Lộc) chú ý củng cố căn cứ địa Việt Bắc, vì “Biết đâu ta còn quay lại đây nhờ cậy đồng bào lần nữa”. 17 năm Phạm Văn Lộc giúp việc, bảo vệ Bác (1928-1945), cho đến khi nước nhà giành được độc lập (ngày 2-9-1945) vẫn không mảy may đòi hỏi quyền lợi cho bản thân, không nề hà bất cứ nhiệm vụ nào được cách mạng giao phó.
Sau ngày toàn quốc kháng chiến (19-12-1946), huyện Định Hóa trở thành ATK Trung ương, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, Chính phủ ở, làm việc lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Phạm Văn Lộc đang phụ trách binh công xưởng ở Tuyên Quang thì được gọi về giúp việc Chủ tịch Hồ Chí Minh, được Người đặt tên là Đồng, trực tiếp nấu ăn và giúp việc Bác trên mọi nẻo đường kháng chiến. Về Khuôn Tát, xã Phú Đình (Định Hóa) dưới chân núi Hồng, những cơn sốt rét ác tính và bệnh đường ruột đã quật ngã Phạm Văn Lộc. Bác Hồ rất buồn, Người cùng các đồng chí ở Văn phòng Phủ Chủ tịch (Vũ Kỳ, Triệu Hồng Thắng, Tạ Quang Chiến...) đã an táng Phạm Văn Lộc bên khe suối Khuôn Tát (ngày 3-6-1948). Vào dịp sinh nhật Bác (ngày 19-5-1949), các chiến sĩ bảo vệ, giúp việc tặng Người bó hoa rừng. Người rơm rớm nước mắt và nói: Mang hoa ra đặt trên mộ chú Lộc. Người tâm sự, nêu gương Phạm Văn Lộc: “Trong lúc khó khăn, gian khổ, làm việc không chút nề hà, đến lúc nước nhà độc lập cũng không mảy may đòi hưởng thụ”...
Trở lại câu chuyện về người vợ trẻ của liệt sĩ Phạm Văn Lộc. Sau khi anh Lộc chia tay chị Cúc được 8 năm (năm 1937), vợ chồng Nguyễn Bun sinh được cô con gái đặt tên là Nguyễn Thị Đòn. Ông Bun giữ lời hứa với người bạn chí thiết, Đòn được 1 tuổi thì bà Nguyễn Thị Cúc nhận về nuôi. Nguyễn Thị Đòn lớn lên trong sự ấp ủ của mẹ Cúc, sau đó xây dựng gia đình với anh Lê Thanh Quang. Đến năm 1960, thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ Việt Nam về việc Việt kiều từ Thái Lan hồi hương, bà Cúc (khi đó đã ngoài 50 tuổi) trở về Tổ quốc. Bà cùng với vợ chồng người con nuôi tìm về quê chồng ở thôn Phú Cát, xã Lương Ninh, huyện Quảng Ninh (tỉnh Quảng Bình) với trăn trở, mong muốn tìm chồng. Bà Cúc chỉ biết chồng theo Thầu Chín đi hoạt động cách mạng, nên bà đã ra Hà Nội (năm 1962) xin gặp Bác Hồ hỏi tin tức của chồng, nhưng đúng dịp Người đi Liên Xô nên không gặp được, bà buồn bã trở về thôn Phù Cát.
Khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc (năm 1967), gia đình anh chị Lê Thanh Quang, Nguyễn Thị Đòn cùng bà Cúc đi sơ tán ra Thái Hòa, huyện Nghĩa Đàn, sau đó sơ tán tiếp lên Quỳ Châu, Quỳ Hợp (tỉnh Nghệ An). Bà Cúc nói với vợ chồng anh Quang để con trai là Lê Văn Lợi (sinh ngày 8-9-1967) ở lại để bà nuôi cho ấm tuổi già. Năm 1969, bà Cúc gửi Lợi cho hàng xóm rồi ra Hà Nội tiếp tục xin được gặp Bác Hồ để hỏi về tin tức của ông Lộc, đúng lúc Bác ốm nặng, bà phải quay về thì được tin Người từ trần. Cùng với nỗi đau bặt tin chồng, bà Cúc - thím Nghĩa ngày nào - lại khóc thương Bác Hồ. Tháng 10-1975, bà Cúc cùng vợ chồng anh Quang, chị Đòn và Lợi trở về quê chồng ở thôn Phù Cát, xã Lương Ninh, huyện Quảng Ninh (tỉnh Quảng Bình) sinh sống.
Đến tháng 5-1979, được đọc bài báo của bác Vũ Kỳ - Thư ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh - đăng trên Báo Nhân Dân nhân dịp kỷ niệm Ngày sinh của Bác (19-5-1979), trong đó có nhắc đến liệt sĩ Phạm Văn Lộc, người đã có công phục vụ, bảo vệ Bác từ năm 1928 đến 1948, bà Cúc nghẹn ngào: Đúng là chuyện ông nhà tôi rồi! Thế là anh Vũ Kỳ biết việc của chồng tôi… Tháng 6-1980, bà cùng cháu Lợi ra Hà Nội xin gặp bác Vũ Kỳ, lúc đó là Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh, để tìm hỏi tin tức của chồng. Hai bà cháu đã được bác Vũ Kỳ và đồng chí Hoàng Hữu Kháng, Cục trưởng Cục Cảnh vệ, là đồng đội của chồng bà, kể nhiều chuyện về ông Phạm Văn Lộc. Bà Cúc muốn đi tìm mộ chồng, bác Vũ Kỳ và đồng chí Hoàng Hữu Kháng nhờ người đi tìm nhưng chưa được.
Trò chuyện với chúng tôi, anh Lợi cho biết: Sau chuyến ra Hà Nội năm ấy, được sự giúp đỡ của bác Vũ Kỳ cùng các cơ quan Trung ương, bà Nguyễn Thị Cúc đã được hưởng chế độ tiền tuất dành cho vợ liệt sĩ. Từ ngày 1-10-1980, bà được Ban Tổ chức Trung ương ký quyết định cho hưởng chế độ hưu trí. Xã Lương Ninh đã dựng cho hai bà cháu một căn nhà nhỏ vách đất lợp ngói, bà cháu lập ban thờ Bác Hồ và liệt sĩ Phạm Văn Lộc.
Ở tuổi gần 80, bà Cúc được mời vào sống tại nhà dưỡng lão Yết Kiêu (T.P Huế), còn Lợi ở lại xã Lương Ninh để theo học tại Trường PTTH Đồng Hới, đến kỳ nghỉ hè lại vào Huế với bà. Năm 1986, tốt nghiệp PTTH, Lợi từ chối suất đi Liên Xô (cũ) lao động hợp tác, tình nguyện vào bộ đội. Bà Nguyễn Thị Cúc mất ngày 6-5-1990 tại Bệnh viện Trung ương Huế, thọ 84 tuổi.
Vào bộ đội tăng thiết giáp, Lê Văn Lợi bị thương (gãy chân) trong một buổi huấn luyện chiến đấu. Điều trị khỏi, anh xin ra quân, về quê Quảng Bình thờ phụng ông bà. Anh đã mở xưởng làm đồ gia dụng bằng sắt, được khách hàng tín nhiệm, đồng thời còn tổ chức dạy nghề cho thanh niên và các cựu quân nhân chưa có việc làm ở địa phương.
Về phần mình, T.S Chu Đức Tính, lúc này là Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh, vẫn luôn nhớ đến lời căn dặn của bác Vũ Kỳ: “Chú thay tôi tiếp tục tìm phần mộ anh Lộc và báo cho gia đình biết”. Anh Tính nhờ Bảo tàng tỉnh Thái Nguyên tìm giúp phần mộ liệt sĩ ở khu vực ven suối Khuôn Tát. Cán bộ UBND xã Phú Đình (Định Hóa) cho biết, những năm cuối thập kỷ 70 của thế kỷ trước, Đoàn thanh niên địa phương đã quy tập các hài cốt liệt sĩ trên địa bàn về trụ sở UBND xã rồi đưa ra Nghĩa trang liệt sĩ của huyện (ở thị trấn Chợ Chu) chôn cất, do đánh mất giấy tờ ghi họ tên từng bộ hài cốt liệt sĩ nên phần mộ đành ghi là chưa rõ nhân thân...
T.S Chu Đức Tính đã giao bản thiết kế và 300 triệu đồng huy động được cho Ban Quản lý Khu di tích Lịch sử - Sinh thái ATK Định Hóa để phối hợp xây bia lưu niệm tại nơi liệt sĩ Phạm Văn Lộc hy sinh (ngày 3-6-1948) bên bờ suối Khuôn Tát. Đến đúng dịp Quốc khánh 2-9 năm 2013, bia tưởng niệm đã được khánh thành.
Và, vào đúng ngày giỗ liệt sĩ Phạm Văn Lộc năm nay (ngày 21 tháng Bảy âm lịch, tức 17-8-2014), tôi cùng anh Lê Văn Lợi và cán bộ Bảo tàng Hồ Chí Minh đã lên Nghĩa trang liệt sĩ huyện Định Hóa thắp hương trên phần mộ liệt sĩ Phạm Văn Lộc. Ngôi mộ được nhà ngoại cảm tên là Phương (chuyên nghiên cứu về tiềm năng con người) định vị, nằm ngay phía sau bên trái của Đài tưởng niệm tại Nghĩa trang liệt sĩ huyện.
Không chỉ anh Lợi mà cả chúng tôi, những người làm công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa Hồ Chí Minh ở ATK Việt Bắc - Thái Nguyên cùng Bảo tàng Hồ Chí Minh, có thể tự hào đã chung tay xây dựng nơi ghi dấu về liệt sĩ Phạm Văn Lộc, người đã 20 năm đi theo bảo vệ, phục vụ Bác Hồ. Và, câu chuyện về gia đình người liệt sĩ can trường ấy thật cảm động biết nhường nào. Được biết hiện nay, tiếp nối truyền thống cha ông, cháu Lê Đức Anh (con trai của anh Lợi) đã xung phong nhập ngũ, là lính Hải quân tham gia giữ gìn chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.