Sau một thời gian dài hoạt động ở nhiều nước, cuối năm 1938, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô đi Trung Quốc để tìm cách về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng. Đầu năm 1940, Người đến Côn Minh (thủ phủ tỉnh Vân Nam) và đến tháng 8-1940, Người trở lại Quế Lâm (tỉnh Quảng Tây) cùng với một số cán bộ, chuẩn bị điều kiện và chờ cơ hội thuận lợi để trở về Tổ quốc.
Chính tại nơi đây, với tầm nhìn chiến lược, Người đã nhận định: “Căn cứ địa Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng nước ta… Nhưng từ Cao Bằng còn phải phát triển về Thái Nguyên và thông xuống nữa mới có thể tiếp xúc với toàn quốc được. Có nối được phong trào với Thái Nguyên và toàn quốc thì khi phát động đấu tranh vũ trang, lúc thuận lợi có thể tiến công, lúc khó khăn có thể giữ”.
Như vậy, ngay từ khi còn ở nước ngoài, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã có sự quan tâm đặc biệt đến phong trào cách mạng ở Thái Nguyên, thấy rõ vị trí chiến lược của vùng đất này đối với cách mạng Việt Nam. Tại Hội thảo khoa học Hồ Chí Minh với việc xây dựng ATK Định Hóa trong căn cứ địa Việt Bắc, các nhà nghiên cứu có đề cập: “Thời kỳ tiền khởi nghĩa khi Bác về Pác Bó đã có ý định phát triển cơ sở xuống Thái Nguyên, vì Thái Nguyên là một địa bàn quan trọng “tiến có thể đánh, lui có thể giữ” và nhân dân ở đây có truyền thống cách mạng”.
Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), dưới ánh sáng bản Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta, cao trào kháng Nhật cứu nước dâng lên khắp toàn quốc. Thời cơ cho nhân dân ta nổi dậy Tổng khởi nghĩa nhanh chóng chín muồi. Huyện Định Hóa nằm trong dự định của lãnh tụ Hồ Chí Minh chọn làm nơi Người “dừng chân ở đây một thời gian để cơ mưu việc lớn”.
Về sự kiện này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhớ lại: “Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), tôi đã cùng Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân tiến về Chợ Chu (Định Hóa - Thái Nguyên) và thống nhất hai đội quân Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân với đội Quân cứu quốc thành Việt Nam Quân giải phóng tại Định Biên Thượng (Định Hóa). Tiếp đó, tôi nhận được chỉ thị của Bác Hồ bố trí cho Bác về làm việc ở Chợ Chu. Tôi bàn với hai anh Tấn và Song Hào đề nghị Bác chọn Tân Trào, vì Chợ Chu tuy cơ sở chính trị, kinh tế đều tốt nhưng có đường thông thương với Thái Nguyên dễ bị uy hiếp; còn Tân Trào, dân cư có thưa thớt, kinh tế có khó khăn nhưng địa thế hiểm trở hơn. Châu Sơn Dương còn cách tỉnh lị Tuyên Quang bởi con sông Lô, tiện bảo vệ”. Vì vậy, Tân Trào được chọn là nơi Bác ở và làm việc, trở thành Thủ đô Khu Giải phóng. Từ Tân Trào, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn Đảng, toàn dân: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Hưởng ứng chủ trương của Trung ương Đảng và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên đã phối hợp với Quân giải phóng nổi dậy giành chính quyền từ trong tay phát xít Nhật. Chiều 20/8/1945, tại cuộc mít tinh lớn được tổ chức ở sân vận động thị xã Thái Nguyên, đồng chí Võ Nguyên Giáp thay mặt Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc tuyên bố xóa bỏ chính quyền của Nhật và tay sai, thành lập Ủy ban Nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Thái Nguyên. Khoảng 21 giờ, ngày 22/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Tân Trào về đến thị xã Thái Nguyên. Ngay tối hôm đó, Người gặp gỡ các đồng chí cán bộ lãnh đạo tỉnh để nắm tình hình địa phương và căn dặn những việc cần làm đối với một chính quyền cách mạng non trẻ.
Sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, với tầm nhìn xa trông rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân công đồng chí Phạm Văn Đồng cùng một số cán bộ ở lại Việt Bắc một thời gian để củng cố căn cứ địa.
Cuối tháng 10-1946, Trưởng ban Tài chính Trung ương Đảng Nguyễn Lương Bằng được giao nhiệm vụ trở lại Việt Bắc để chuẩn bị địa điểm xây dựng căn cứ địa kháng chiến. Một số địa điểm thuộc huyện Định Hóa (Thái Nguyên), phía Nam huyện Chợ Đồn (Bắc Kạn) được chọn làm nơi ở và làm việc của các cơ quan Trung ương Đảng và Chính phủ trong trường hợp phải rời khỏi Thủ đô.
Tháng 11-1946, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định thành lập Đội công tác đặc biệt, do đồng chí Trần Đăng Ninh phụ trách, chuyên lo việc nghiên cứu chọn địa điểm an toàn đặt các cơ quan Trung ương và kế hoạch tổng di chuyển lên căn cứ trong trường hợp xảy ra chiến tranh.
Giữa tháng 12-1946, một số cán bộ trong Đội công tác đặc biệt lần lượt lên vùng Việt Bắc làm nhiệm vụ. Sau một thời gian khảo sát thực tế, cân nhắc kỹ lưỡng mọi mặt, Đội quyết định chọn các huyện Định Hoá, Đại Từ, Phú Lương, Võ Nhai (Thái Nguyên), cùng với các huyện Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hoá (Tuyên Quang) và Chợ Đồn (Bắc Kạn) làm nơi xây dựng An toàn khu (ATK) của Trung ương. Đó là những nơi có đủ các yếu tố địa lợi và nhân hoà, bảo đảm sự an toàn cho các cơ quan đầu não kháng chiến hoạt động trong những năm chiến tranh ác liệt.
Ngay sau ngày toàn quốc kháng chiến bùng nổ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng, Chính phủ rời Thủ đô chuyển lên Căn cứ địa Việt Bắc. Trên đường di chuyển lên ATK, mờ sáng ngày 4/3/1947, Người rời Sơn Tây, qua bến đò Trung Hà sang đất Phú Thọ. Cùng đi với Người có 8 cán bộ vừa làm cảnh vệ, vừa làm liên lạc và cấp dưỡng. Đồ dùng của Người mang theo gồm có chăn, màn, vài bộ quần áo, đôi dép cao su, chiếc máy chữ và ít tài liệu, sách, báo đựng trong chiếc túi nhỏ. Từ ngày 2/4/1947, Bác Hồ ở tại làng Xảo (xã Bình Phú, còn gọi là xã Hợp Thành, huyện Sơn Dương - lúc đó gọi là châu Tự Do, tỉnh Tuyên Quang).
Tối 19/5/1947, từ làng Xảo (Sơn Dương, Tuyên Quang), Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các cán bộ cảnh vệ, giúp việc trèo đèo, lội suối sang ATK Định Hoá. Ngày 20/5/1947, Người đến ở và làm việc tại đồi Khau Tý, thôn Điềm Mặc (nay là xã Điềm Mặc) và ở đó cho đến ngày 11/10/1947.
Di tích đồi Khau Tý, xóm Bản Quyên, xã Điềm Mặc (Định Hóa) - nơi Bác Hồ đã ở và làm việc trong những năm kháng chiến chống Thực dân Pháp đã được xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt. Ảnh: T.L
Thời gian đầu, các đồng chí phục vụ mới dựng được hai căn nhà để Bác, các đồng chí Vũ Kỳ, Hoàng Hữu Kháng, nữ đồng chí Thường (cấp dưỡng phục vụ Bác) ở và làm việc. Còn các đồng chí khác ở tạm trong nhà đồng chí Ma Đình Tương (lúc đó là Chủ tịch Ủy ban Hành chính huyện Định Hóa). Nơi ở và làm việc của Bác là một căn nhà sàn lợp lá gồm hai gian được dựng trên đồi Khau Tý, nép mình bên cây cổ thụ giữa khu rừng nứa ngộ thuộc thôn Nà Tra. Căn nhà Bác ở thoáng mát, vách nứa được đan rất khéo tay, nhìn rất đẹp. Trên một phía vách có treo một chiếc áo the dài, một khăn xếp, một chiếc ô đen. Đó là những thứ Bác dùng để cải trang khi đi công tác. Dưới sàn có hai chiếc vali dùng để đựng tài liệu và quần áo. Giữa sàn trải một chiếc chiếu. Tất cả “tiện nghi” của Bác Hồ - vị Cha già kính yêu của dân tộc ta, vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ có như thế.
Cách căn nhà Bác ở khoảng 10m, là một căn nhà nhỏ xinh xắn. Giữa hai căn nhà là sân đất sạch sẽ. Ở góc sân có một xà đơn, một xà kép, cạnh đó là hầm tránh máy bay. Từ nơi Bác ở có con đường mòn đi sang huyện Sơn Dương (Tuyên Quang), xuống huyện Đại Từ (Thái Nguyên), lên Chợ Đồn (Bắc Kạn), ra huyện Phú Lương (tỉnh Thái Nguyên) và nhiều đường tắt đi lại kín đáo, thuận tiện.
Để đảm bảo bí mật, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo cao cấp thường xuyên thay đổi địa điểm làm việc. Có lúc, Người ở huyện Định Hoá (Thái Nguyên), có lúc sang Sơn Dương, Yên Sơn (Tuyên Quang), có lúc lên Chợ Đồn (Bắc Kạn) hoặc sang Võ Nhai (Thái Nguyên). Riêng huyện Định Hoá, Người đã từng ở và làm việc tại xã Điềm Mặc từ ngày 20-5 đến ngày 11/10/1947; Khuôn Tát (xã Phú Đình) từ ngày 20 đến 28/11/1947; Nà Lọm (xã Phú Đình) từ ngày 7-3 đến ngày 12/9/1948 và cuối năm 1951, bản Pèo (xã Phú Đình) từ ngày 12-5 đến ngày 01/6/1949… Lịch sử có ghi: “Cơ quan Trung ương Đảng, cơ quan đồng chí Trường Chinh thường ở gần cơ quan của Bác và Tổng Quân ủy, Bộ Tổng Tư lệnh, chủ yếu là ở Lục Rã (Phú Đình), cũng có lúc cơ quan chuyển sang Tân Trào nhưng ít lâu sau lại trở về chỗ cũ…”.
Thái Nguyên là một trong những địa bàn chiến lược được Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn làm nơi đặt "đại bản doanh" để lãnh đạo quân, dân cả nước tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Từ huyện Định Hóa - trung tâm Thủ đô kháng chiến, Bác Hồ cùng Trung ương Đảng và Chính phủ đã đưa ra nhiều quyết sách quan trọng liên quan đến vận mệnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của cả dân tộc, trong đó có quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ. Từ quyết định lịch sử này, quân và dân ta đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ, cam kết công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Với ý nghĩa lịch sử đó, Tỉn Keo, Phú Đình, ATK Định Hóa đã trở thành vùng đất thiêng liêng của cả dân tộc Việt Nam.
Di tích lán Tỉn Keo, xã Phú Đình (Định Hóa), nơi Bác Hồ sống và làm việc trong thời kỳ kháng chiến.
Không chỉ các quyết sách lớn của Đảng và Chính phủ được quyết định tại ATK Định Hoá, mà các hoạt động ngoại giao cũng diễn ra chủ yếu trên đất Thái Nguyên. “Bác gặp Pôn Muýt (Paul Mus) - đại diện Cao ủy Pháp, tại thị xã Thái Nguyên. Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Pháp do Lêô Phighe (Léo Figuères) dẫn đầu, các đoàn cố vấn Trung Quốc, đoàn điện ảnh Liên Xô (cũ) và nhà đạo diễn nổi tiếng Cácmen, nhiều nhà ngoại giao, nhà báo quốc tế… được Bác Hồ tiếp tại Định Hoá. Các đồng chí lãnh đạo Đảng bạn như Chủ tịch Xuvanuvông, đồng chí Cayxỏn, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào; đồng chí Sơn Ngọc Minh, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia… trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp đã ở và làm việc nhiều ngày trên đất Đại Từ…”.
Như vậy, với địa hình, địa thế hiểm yếu, cùng với cơ sở cách mạng ra đời sớm và phát triển vững chắc là những cơ sở quan trọng giúp cho Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định chọn Thái Nguyên cùng Tuyên Quang, Bắc Kạn làm địa bàn xây dựng ATK Trung ương. Chọn ATK ở Việt Bắc nói chung và Định Hóa nói riêng chính là chọn được nơi an toàn nhất, chắc chắn nhất cho cơ quan đầu não tồn tại và lãnh đạo cuộc kháng chiến đi tới thắng lợi. Sự thất bại hoàn toàn của thực dân Pháp trong cuộc tấn công lên Căn cứ địa Việt Bắc Thu - Đông 1947 là thực tế khẳng định việc lựa chọn và xây dựng ATK ở vùng này là hoàn toàn chính xác.