Xây dựng Đảng qua gần 40 năm đổi mới

13:38, 03/02/2020

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; tăng cường xây dựng Đảng về chính trị; nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị; kiện toàn tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên; đổi mới công tác cán bộ, coi trọng bảo vệ chính trị nội bộ; đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.

Đại hội VI, Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986) đã quyết định đường lối đổi mới toàn diện: Đổi mới các chính sách và cơ chế quản lý kinh tế; đổi mới chính sách xã hội nâng cao đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân; đổi mới chính sách đối ngoại, quốc phòng, an ninh; đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị và sự lãnh đạo của Đảng. Đó là nội dung căn bản của xây dựng Đảng về chính trị bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đưa đất nước ngày càng phát triển. Đường lối đổi mới của Đảng không ngừng được bổ sung, phát triển, được cụ thể hóa, thể chế hóa bằng hệ thống các chính sách và pháp luật của Nhà nước.

Một trong những nguy cơ lớn đối với một Đảng cầm quyền là sai lầm trong đường lối dẫn đến chệch hướng. Giữa lúc các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng toàn diện dẫn tới thay đổi thể chế chính trị ở các nước Đông Âu và Liên Xô, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra 5 nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới, khẳng định: Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp; chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh luôn luôn là nền tảng tư tưởng của Đảng, chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam; đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, không chấp nhận đa nguyên, đa đảng; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ đi đôi với tập trung, với kỷ luật, pháp luật, ý thức trách nhiệm công dân, dân chủ phải có lãnh đạo, lãnh đạo bằng phương pháp dân chủ, trên cơ sở phát huy dân chủ; kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại. Những nguyên tắc đó thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng của Đảng, bảo đảm cho sự nghiệp đổi mới phát triển đúng hướng và đến nay vẫn giữ nguyên giá trị.

Với việc thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại Đại hội VII của Đảng (6-1991) là bước phát triển mới rất quan trọng trong xây dựng Đảng về chính trị. Cương lĩnh nêu rõ 6 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và những phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội XI của Đảng đã bổ sung, phát triển Cương lĩnh 1991 làm rõ hơn đặc trưng của chủ nghĩa xã hội và những vấn đề của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Sự nghiệp đổi mới được khởi động bởi quá trình khảo nghiệm thực tế từ cuối những năm 70 đầu những năm 80 của thế kỷ XX và được thúc đẩy của quá trình đổi mới tư duy lý luận, nhận thức rõ hơn các quy luật khách quan, những đặc điểm, đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối đổi mới là sản phẩm của tư duy mới, của quá trình xây dựng Đảng về tư tưởng và lý luận. Đại hội VI của Đảng cho rằng: "Trong lĩnh vực tư tưởng, đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật đang hoạt động trong thời kỳ quá độ; đã mắc bệnh duy ý chí, giản đơn hóa, muốn thực hiện nhanh chóng nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nước ta mới ở chặng đường đầu tiên".

Đại hội VII của Đảng (6-1991), trong hoàn cảnh quốc tế phức tạp, khủng hoảng lý luận ở nhiều đảng cộng sản cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định chủ nghĩa Mác - Lê-nin là nền tảng tư tưởng của Đảng, đồng thời khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh một cách có hệ thống và sâu sắc. Ngày 28/3/1992 Bộ Chính trị (khóa VI) ra Nghị quyết số 01-NQ/TW về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay. Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận một cách sáng tạo, làm sáng tỏ hơn nữa căn cứ khoa học và thực tiễn để xây dựng mô hình về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Khẳng định và làm rõ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Nghiên cứu toàn diện, có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Nghiên cứu một cách khách quan, biện chứng những học thuyết khác ngoài chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại, cơ hội, giáo điều. Nghiên cứu sâu về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Làm rõ những quan điểm về đổi mới hệ thống chính trị. Nghiên cứu mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại. Tiến hành thường xuyên cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận theo yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.

Công tác tư tưởng lý luận được đẩy mạnh gắn liền với đổi mới chương trình đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận trong toàn Đảng, nhất là đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt. Ngày 18/2/1995 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TW về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay. Nghị quyết khẳng định: Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn. Chế độ ta là chế độ do nhân dân lao động làm chủ; Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ. Kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ công bằng xã hội. Phát triển văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.

Bước phát triển quan trọng trong xây dựng Đảng về tổ chức là Hội nghị lần thứ ba, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (6-1997) đề ra Chiến lược cán bộ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chiến lược đã nêu rõ tiêu chuẩn chung của cán bộ và tiêu chuẩn cụ thể của cán bộ lãnh đạo, Đảng, Nhà nước, đoàn thể, cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang, cán bộ khoa học, chuyên gia, cán bộ quản lý kinh doanh. Thực tiễn của quá trình thực hiện chiến lược cán bộ cho thấy sự cần thiết phải triển khai đồng bộ các khâu: Đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng, xây dựng và thực hiện chính sách cán bộ.

Hội nghị lần thứ chín, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X (2-2009) đã tổng kết 10 năm thực hiện chiến lược cán bộ và chủ trương tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược cán bộ đến năm 2020. Trung ương Đảng cho rằng: "Đội ngũ cán bộ nước ta có bước trưởng thành và tiến bộ về nhiều mặt, đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”. Tuy nhiên, nhiều yếu kém, khuyết điểm trong công tác cán bộ chậm được khắc phục. "Tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thiếu trách nhiệm, thiếu tự giác rèn luyện, phấn đấu, thiếu tinh thần đồng chí trong một bộ phận không nhỏ cán bộ diễn ra nghiêm trọng, kéo dài nhưng chậm có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn và kịp thời xử lý, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ". Trung ương chủ trương tiếp tục thực hiện chiến lược cán bộ với những nhiệm vụ và giải pháp lớn. Chỉnh đốn Đảng về tổ chức đòi hỏi phải nâng cao đạo đức cách mạng, Đảng đã mở cuộc vận động lớn "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" từ ngày 3/2/2007. Cuộc vận động trở thành hoạt động sinh hoạt chính trị nổi bật, được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hưởng ứng và đã ảnh hưởng lớn đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Đại hội XII xác định 6 nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ, thì có hai nhiệm vụ về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và được xếp ở vị trí thứ nhất, thứ hai. Cụ thể là: Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.

Nhìn lại 4 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII về công tác xây dựng Đảng, đông đảo cán bộ, đảng viên, kể cả những người dân có trách nhiệm đối với đất nước đều có thể cảm nhận rằng, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã được Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy, tổ chức đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện vừa toàn diện, đồng bộ; vừa có trọng tâm, trọng điểm và chọn đúng khâu đột phá để thực hiện với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt. Đã kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng và chỉnh đốn Đảng, trong đó xây dựng được đẩy mạnh, chỉnh đốn được tăng cường; siết chặt kỷ luật, kỷ cương của Đảng và pháp luật của Nhà nước; đề cao trách nhiệm của cấp ủy và sự gương mẫu của cấp trên, người đứng đầu các cấp; tăng cường sự đoàn kết thống nhất của Đảng và sự đồng thuận trong xã hội và huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị. Vì vậy, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đạt được kết quả khá toàn diện trên các mặt, nhất là đã từng bước khắc phục được một số hạn chế, yếu kém kéo dài đối với một số lĩnh vực khó, phức tạp, nhạy cảm, như: Việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; xử lý nghiêm, “không có vùng cấm” đối với cán bộ, đảng viên vi phạm, kể cả cán bộ đã nghỉ hưu; việc kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn; việc tinh giản biên chế; việc kiểm soát quyền lực và chống chạy chức, chạy quyền.