Là một quốc gia biển, Chính phủ Việt Nam luôn chú trọng việc bảo vệ sự phong phú của các hệ sinh thái biển quan trọng, bảo vệ môi trường sống tự nhiên thường xuyên hoặc theo mùa của các loài thủy, hải sản, các loài hoang dã như rùa biển; bảo vệ cảnh quan biển, ven biển và đảo, nét đẹp độc đáo của thiên nhiên biển; bảo toàn vốn thiên nhiên biển...
6 vùng đa dạng sinh học biển
Trong vùng biển Việt Nam, đã phát hiện hơn 11.000 loài sinh vật cư trú trong 20 kiểu hệ sinh thái điển hình, thuộc 6 vùng đa dạng sinh học biển khác nhau. Trong tổng số loài được phát hiện có khoảng 6.000 loài động vật đáy; 2.038 loài cá, trong đó trên 100 loài cá kinh tế; cá rạn san hô dao động trong khoảng 152 - 528 loài tùy thuộc vào địa điểm khảo sát; 653 loài rong biển; 657 loài động vật phù du; 537 loài thực vật phù du; 225 loài tôm biển; 94 loài thực vật ngập mặn; 14 loài cỏ biển; 15 loài rắn biển; 12 loài thú biển; 5 loài rùa biển và 43 loài chim nước. Ngoài ra, còn phát hiện khoảng 1.300 loài động vật và thực vật trên các hải đảo. Tổng số loài đã biết nói trên chắc chắn còn thấp hơn số lượng thực tế vì công tác điều tra, nghiên cứu về đa dạng sinh học biển và ven biển chưa được tiến hành định kỳ, đặc biệt đối với các đảo nhỏ.
Bên cạnh đó, dải ven biển nước ta còn có các loại đất, phần lớn bị nhiễm mặn và có các thủy vực với bản chất môi trường nước lợ. Ở đây có mặt các hệ sinh thái đất ngập nước và nhiều vùng đất trũng thấp khác nhau về bản chất, dễ bị tổn thương bởi các hoạt động của con người và thiên tai, đặc biệt là nước biển dâng và biến đổi khí hậu. Đây là một trong những khu vực đặc trưng về đa dạng sinh học, phong phú các nguồn tài nguyên thiên nhiên và cũng là nơi tập trung sôi động các hoạt động phát triển của con người. Tiềm năng của các hệ sinh thái đất ngập nước có chức năng và vai trò sinh thái rất quan trọng và cũng là đối tượng khai thác từ nhiều năm nay của người dân ven biển.
Các hệ sinh thái biển - ven biển bảo đảm an ninh thực phẩm đối với khoảng gần 1 tỷ người trên thế giới đang phụ thuộc vào đánh bắt thủy sản. Tại Việt Nam, các hệ sinh thái biển và kinh tế biển đang là chỗ dựa sinh kế cho gần 20 triệu người dân sống trong 125 huyện ven biển và 14 huyện đảo. Các hệ sinh thái ven biển còn được ví là “Cơ sở hạ tầng tự nhiên” trong bảo vệ bờ biển, bảo đảm an sinh xã hội và tính mạng của người dân địa phương khỏi các tác động của thiên tai biển, lũ lụt, biến đổi khí hậu và nước biển dâng, kể cả sóng thần. Chính vì vậy, Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) đã khuyến cáo bằng một thông điệp: “Đầu tư cho các hệ sinh thái vùng bờ biển là đầu tư cho tương lai”.
Cần có quy hoạch tổng thể
Mặc dù có tiềm năng và lợi thế, nhưng đa dạng sinh học biển, đảo và vùng ven biển nước ta đang phải đối mặt với những đe dọa của chính các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội và thiên tai, bao gồm biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Những đe dọa đó còn là các tác động đến đa dạng sinh học biển từ nguồn đất liền do các sức ép từ tăng trưởng “nóng” thiếu kiểm soát và thiếu liên kết, cũng như sự gia tăng dân số trên các lưu vực sông và vùng ven biển. Cùng với đó là cơ sở hạ tầng nghèo nàn, trang thiết bị thiếu thốn, nhận thức của đội ngũ cán bộ làm công tác bảo tồn và quản lý tài nguyên biển còn thấp và thiếu sự tham gia của cộng đồng người dân địa phương trong việc lập kế hoạch và quản lý các khu bảo tồn biển đã hạn chế công tác quản lý đa dạng sinh học biển và hiệu quả của hoạt động bảo tồn thiên nhiên biển.
Đến nay, các nhà khoa học đã ghi nhận khoảng 100 loài sinh vật biển nước ta có nguy cơ đe dọa và quý hiếm đã được đưa vào Sách đỏ Việt Nam và Danh mục đỏ IUCN để yêu cầu phải có biện pháp bảo vệ. Trong các loài được đưa vào Sách đỏ có 37 loài cá biển, 6 loài san hô, 5 loài da gai, 4 loài tôm rồng, 1 loài sam, 21 loài ốc, 6 loài hai mảnh vỏ, 3 loài mực.
Trước tình hình trên, Chính phủ đã ưu tiên chú trọng hoạt động bảo tồn thiên nhiên biển và xem đây là một trong những giải pháp phát triển bền vững kinh tế biển của đất nước trong tương lai. Đồng thời, các thách thức, đe dọa nói trên cũng đặt ra nhu cầu cấp bách phải tăng cường công tác quản lý đa dạng sinh học biển và phải áp dụng các công cụ mới, trong đó quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học biển phải là một hành động đi trước một bước so với các hoạt động phát triển (đầu tư, khai thác, sử dụng...). Những nỗ lực vừa qua của các cơ quan chức năng, nhà khoa học Việt Nam trong việc áp dụng cách tiếp cận quy hoạch không gian biển với công cụ phân vùng chức năng biển để phân vùng đa dạng sinh học biển đã có hiệu quả bước đầu. Các nhà khoa học đã xác định được các khu vực biển có tiềm năng bảo tồn cao, từ đó quy hoạch hệ thống khu bảo tồn biển quốc gia đến năm 2020 và xây dựng kế hoạch phân vùng quản lý từng khu bảo tồn biển sau phê duyệt. Quá trình áp dụng công cụ phân vùng chức năng biển đã cung cấp những bài học cần thiết tiến tới quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học biển ở Việt Nam trong thời gian tới.
Việc áp dụng công cụ trên trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học biển cấp quốc gia nói trên mới chỉ cho kết quả ban đầu. Để có được một ‘Quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học biển" mà sản phẩm của nó là một "Kế hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học biển" theo đúng nghĩa, cần tiến hành toàn diện hơn, đề cập đến nhiều nội dung hơn trong nhiệm vụ bảo tồn. Đặc biệt, đơn vị quy hoạch phải dựa trên các thông tin đầu vào mang tính hệ thống và cập nhật hơn./.

.jpg?width=300&height=-&type=resize)

